... Từ ga Mát-xcơ-va, Giê-nhi-a không kịp đánh điện cho bố nên vừa xuống tàu em quyết định đi tìm trạm bưu điện địa phương.
Em đi qua một cái công viên cũ, vừa đi vừa hái hoa và tình cờ bước tới một ngã tư có hai dãy phố đầy những hàng rào kín mít. Vẻ hoang vu ở đây làm em nhận ra là mình đã đi lạc đường.Giê-nhi-a chợt trông thấy ngay gần đấy một cô bé đang nắm sừng một con dê bướng bỉnh, vừa lôi đi vừa luôn mồm quát mắng.
- Này đằng ấy ơi, - Giê-nhi-a gọi to,- ra trạm bưu điện đi lối nào hả?
Nhưng lúc đó con dê lồng chạy. No quay sừng phóng một mạch vào công viên. Còn cô bé kia thì vừa la ó, vừa đuổi theo. Giê-nhi-a nhìn quanh: trời tối đến nơi rồi mà chẳng thấy bóng dáng một người nào. Em mở cổng vào một ngôi nhà hai tầng mầu xám rồi bước theo đường mòn tới tận bậc thềm.
Giê-nhi-a không dám mở cửa. Em hỏi to, nhưng rất lễ phép:
- Trong nhà làm ơn cho hỏi thăm đường từ đây ra trạm bưu điện đi lối nào ạ?
Không có tiếng trả lời. Em đứng lặng im suy nghĩ rồi đẩy cửa đi dọc theo hành lang vào một gian phòng. Cả nhà đi vắng. Giê-nhi-a băn khoăn. Em toan quay đi thì bỗng thấy một con chó vàng to tướng chui ở dưới gầm bàn ra. Con chó chăm chắm nhìn vào bộ mặt ngơ ngác của cô bé lạ, rồi nằm lăn ra chắn lối, gầm gừ khe khẽ.
- Mày ngốc lắm!- Giê-nhi-a sợ sệt xoè hai bàn tay ra quát. - Tao có phải là kẻ trộm đâu! Tao không hề lấy một cái gì của nhà mày. Đây là chìa khóa cửa nhà tao. Còn đây là bức điện tao định đi đánh cho ba tao. Ba tao là chỉ huy đấy. Mày hiểu chưa?
Con chó nằm im không hề nhúc nhích. Giê-nhi-a nhè nhẹ bước lại gần ô cửa sổ để mở, tiếp tục nói:
- À! Mày nằm đấy hả? Ừ, cứ nằm im đấy... Mày thật ngoan... Thoáng trông cũng biết là khôn, là dễ thương.
Nhưng Giê-nhi-a chưa kịp đặt bàn tay lên thành cửa sổ thì con chó dễ thương kia đã vội nhảy chồm lên sủa inh ỏi. Giê-nhi-a hoảng hốt nhảy vội lên đi-văng, co cả hai chân lên.
- Lạ nhỉ!- cô bé phát khóc lên. - Mày đi mà bắt bọn kẻ cướp, bọn gián điệp ấy, còn tao đây là người. Này!- Em thè lưỡi ra trêu con chó. - Đồ ngốc!
Giê-nhi-a đặt chiếc chìa khóa cửa và tờ điện báo lên mép bàn. Đành phải đợi chủ nhà về thôi.
Một giờ, rồi hai giờ trôi qua... Trời tối hẳn, xa xa có tiếng còi tàu, tiếng chó sủa, tiếng bóng chuyền. Đâu đó có tiếng đàn ghi ta. Duy ở đây, quanh cái nhà nghỉ mát màu xám này là im lặng, mịt mù.
Giê-nhi-a gối đầu lên thành đi-văng khóc thút thít. Cuối cùng em ngủ thiếp đi.
Đến tận sáng hôm sau, Giê-nhi-a mới tỉnh dậy.
Lùm cây rậm rạp được trận mưa đêm qua gội sạch đang rì rào bên ngoài cửa sổ. Gần đâu đây có tiếng ai kéo nước ở giếng. Và ở chỗ khác lại có tiếng cưa gỗ. Chỉ riêng quanh ngôi nhà nghỉ mát bé nhỏ này là vẫn yên lặng như cũ.
Bây giờ Giê-nhi-a nhận ra dưới gáy em có một chiếc gối da mềm mại và dưới chân em có đắp một tấm chăn mỏng. Còn con chó thì không thấy nằm trên sàn nữa.
Như vậy là đêm qua có ai đã vào đây!
Giê-nhi-a choàng dậy. Em hất ngược mái tóc ra phía sau, vuốt lại nếp áo đã bị nhàu rồi cầm lấy chiếc chìa khóa và tờ điện báo chưa kịp đánh đang để trên bàn. Em toan chạy đi thì vô tình nhìn thấy trên mặt bàn có một tờ giấy viết chữ to bằng bút chì xanh:
"Cô bé, khi nào đi khỏi đây nhớ đóng chặt cửa lại cho". Bên dưới là chữ ký: "Ti-mua".
"Ti-mua? Ti-mua là ai nhỉ? Nhất định phải gặp người này để cảm ơn mới được".
Giê-nhi-a ngó sang phòng bên. Bên đó có một chiếc bàn làm việc. Trên bàn có một lọ mực, một cái gạt tàn thuốc lá và một chiếc gương con. Phía bên phải, ở gần đôi găng tay lái xe có một khẩu súng lục cũ kỹ. Ngay sát bàn lại có một thanh kiếm cong kiểu Thổ Nhĩ Kỳ vỏ đã bong sơn và sây sát. Giê-nhi-a để chìa khóa và bức điện xuống bàn, sờ tay vào đốc kiếm, rồi mạnh dạn rút ra khỏi bao, vung mạnh lên đầu và bước lại gần gương ngắm nghía.
Trông cũng có vẻ oai vệ và dữ tợn đáo để. Giá chụp được một kiểu ảnh như thế này mà mang về trường thì thật là hay. Có thể nói dối là chính em đã có lần được bố cho ra mặt trận. Tay trái có thể cầm thêm khẩu súng lục nữa. Đây. Thế này oách hơn.
Cô bé trợn mắt, bặm môi lại ngắm thẳng vào gương bóp cò.
Tiếng nổ vang dội cả gian phòng. Khói súng che mù cửa sổ. Cái gương để bàn đổ vào cái gạt tàn thuốc lá. Giê-nhi-a hoảng hốt vội bỏ cả chìa khóa lẫn tờ điện báo lại trên bàn, lao thẳng ra cổng, cố thoát cho xa cái ngôi nhà kỳ dị và nguy hiểm này.
Em ra đến bờ sông bằng cách nào cũng không biết nữa. Lúc này trong tay em chẳng còn chiếc chìa khóa căn phòng ở Mát-xcơ-va, cái biên lai để đánh điện và cả tờ điện báo chưa kịp đánh đi cũng mất nốt. Thế là sẽ phải thuật lại mọi chuyện với chị Ôn-ga: từ chuyện con chó, chuyện ngủ lại một đêm trong ngôi nhà vắng chủ, chuyện thanh kiếm Thổ Nhĩ Kỳ và cả chuyện phát súng lục nữa. Thật không may! Giá có ba ở nhà thì ba sẽ thông cảm ngay. Chị Ôn-ga thì không đâu. Nhất định chị ấy sẽ nổi cáu lên, nếu không thì lại khóc. Như vậy sẽ rắc rối hơn. Bản thân Giê-nhi-a cũng biết khóc. Nhưng cứ mỗi lần thấy Ôn-ga khóc là Giê-nhi-a chỉ muốn làm sao leo ngay lên một cái cột điện, một cái cây thật cao, hay là một ống khói trên mái nhà nào đó mà ngồi.
Để lấy can đảm, Giê-nhi-a nhảy xuống sông tắm rồi lặng lẽ đi tìm nhà nghỉ của mình.
Khi em bước đến thềm thì Ôn-ga đang lúi húi thắp cái bếp dầu lửa trong bếp. Nghe thấy tiếng bước chân, chị quay lại và im lặng nhìn Giê-nhi-a đầy vẻ tức giận.
- Chào chị Ôn-ga! - Giê-nhi-a dừng lại ở bậc thềm trên cùng, gượng cười. - Chị không mắng em đấy chứ?
- Nhất định sẽ mắng. - Ôn-ga đáp, mắt vẫn chằm chằm nhìn em.
- Thế thì chị mắng em đi!- Giê-nhi-a ngoan ngoãn chịu lỗi. - Chị ạ, thật là một chuyện hết sức lạ lùng, một cuộc phiêu lưu thật ly kỳ! Chị đừng cau mặt lại thế. Chẳng có gì đáng hoảng hốt cả, em chỉ đánh mất chìa khóa và chưa đánh được điện cho ba thôi...
Giê-nhi-a nheo mắt, lấy lại tinh thần để kể một mạch từ đầu đến cuối. Nhưng vừa lúc đó cánh cổng nhà ken két mở ra. Một con dê lông bờm xờm, dính đầy quả ké đang cắm cổ chạy thục mạng vào sân rồi lao ra vườn. Người chạy đuổi theo con dê ấy lại chính là cô bé chân đất mà Giê-nhi-a đã biết mặt. Nhân cơ hội đó Giê-nhi-a chạy lảng ra vườn, đuổi theo con dê.
Nhưng vừa chạy đến nơi thì cô bé kia đã tóm được sừng dê rồi.
- Này, cậu có đánh mất gì không? - cô bé vừa giơ chân đá con dê tới tấp, vừa rít răng lại hỏi Giê-nhi-a.
Giê-nhi-a không hiểu ý, đáp:
- Không!
- Thế cái này của ai? Không phải của cậu à? - Cô bé đưa cho Giê-nhi-a chiếc chìa khóa căn phòng ở Mát-xcơ-va.
- Của tôi! Giê-nhi-a hoảng hốt liếc nhìn về phía hành lang khẽ trả lời.
- Cậu cầm lấy cái chìa khóa, cái thư và tờ biên lai đánh điện này, còn bức điện thì đã gửi đi rồi, - cô bé vẫn nói liến thoắng và rin rít như lúc nãy.
Cô bé giúi vào tay Giê-nhi-a một gói giấy, rồi đấm luôn cho con dê một cái.
Con dê nhảy chồm lên, chạy thẳng ra phía cổng, cô bé chạy theo như một cái bóng, bất chấp cả bụi ké lẫn lá han. Ra khỏi cổng cả hai đều biến nhanh trong nháy mắt.
Giê-nhi-a so vai lại, như thể chính em vừa bị cô bé kia đấm chứ không phải là con dê. Em mở gói giấy ra xem:
"Đây là chìa khóa còn đây là biên lai đánh điện. Như vậy là đã có ai giúp mình đánh điện đi cho ba rồi. Nhưng ai nhỉ? Ái chà! Có thư đây rồi! Thế này là thế nào nhỉ?"
Trên mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ to ghi bằng bút chì xanh:
"Cô bạn. Ở nhà đừng sợ gì ai. Mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi. Tôi sẽ không nói chuyện với ai đâu". Và ở dưới lại có chữ ký: "Ti-mua".
Như người mất hồn, Giê-nhi-a nhét mảnh thư vào túi. Sau đó em vươn thẳng vai lên, bình tĩnh bước lại chỗ Ôn-ga. Ôn-ga vẫn đứng im bên bếp dầu hỏa còn chưa kịp châm lửa, nước mắt vòng quanh.Giê-nhi-a thấy vậy bèn thốt lên đau đớn:
- Chị Ôn-ga ơi. Em đùa đấy mà. Có chuyện gì đáng để chị phải giận em đâu? Em đã dọn sạch sẽ các phòng, em lau cả cửa kính, em lại còn cố giặt hết cả giẻ lau, lau hết cả mặt sàn rồi còn gì nữa. Đây, chị cầm lấy chìa khóa. Còn đây là biên lai điện đánh đi cho ba. Nào, chị cho em hôn chị một cái. Em yêu chị vô cùng. Chị có biết không! Chị có muốn vì chị mà em có thể nhảy từ trên mái nhà xuống bụi lá han kia không?
Và không đợi chị trả lời, Giê-nhi-a cứ thế chạy lại ôm chầm lấy cổ chị.
- Phải... chị lo phát sốt lên đấy!- Chị Ôn-ga tỏ vẻ thất vọng.- Cái lối đùa của em thật là ngốc... Ba đã dặn chị là... Thôi, Giê-nhi-a! Tay chị dầu hoả đây này! Giê-nhi-a, em đổ sữa vào xoong rồi đặt lên bếp đi!
Khi Ôn-ga đã ra đến chậu rửa mặt, Giê-nhi-a vẫn còn lẩm bẩm:
- Nhưng em... không đùa thì không chịu được.
Giê-nhi-a vừa đặt xoong sữa lên bếp dầu lửa vừa đưa tay vào túi lần tờ giấy nhỏ. Em hỏi:
- Chị Ôn-ga này, có ông Trời không nhỉ?
- Làm gì có!- Ôn-ga đáp rồi cúi mặt xuống chậu nước.
- Thế có ai?
- Thôi đi!- Ôn-ga khó chịu trả lời. - Chẳng có ai hết.
Giê-nhi-a im lặng một lát rồi lại hỏi:
- Chị Ôn-ga này, Ti-mua là ai?
- Đấy không phải là ông Trời mà là một ông vua, - Ôn-ga vừa thoa xà phòng lên mặt, lên tay, vừa miễn cưỡng trả lời. - Đó là một ông vua thọt thời trung cổ ác có tiếng.
- Thế nếu không phải là vua, không ác và cũng không sống ở thời trung cổ thì chị bảo là ai?
- Thế thì chị chịu. Thôi, đủ rồi đấy! Mà cái Ti-mua đấy có việc gì đến em?
- Việc gì đến em ở chỗ là hình như em rất yêu người ấy thì phải.
- Ai? - Ôn-ga không hiểu, vội ngẩng khuôn mặt đầy những xà phòng lên, hỏi em. - Em nói lảm nhảm cái gì thế. Toàn bịa chuyện lăng nhăng, không để cho người ta rửa mặt nữa! Cứ đợi đấy, rồi ba về ba sẽ bảo cho mà biết cái chuyện yêu với ghét ấy.
- Ba về thì có sao! -Giê nhi-a thốt lên, giọng vừa đau khổ lại vừa thiết tha. - Ba có về cũng chẳng ở nhà được bao lâu. Và tất nhiên không bao giờ ba lại nỡ tâm làm cho một con người đơn độc và yếu đuối phải khổ.
- Em đơn độc và yếu đuối à? - Ôn-ga hoài nghi hỏi lại. - Trời ơi, Giê-nhi-a ơi, chị cũng chẳng hiểu em là một đứa bé như thế nào và giống ai nữa!
Nghe thấy vậy Giê-nhi-a bèn cúi thấp đầu xuống để ngắm lại gương mặt mình in lên cái ấm đun nước mạ kền, rồi không do dự, kiêu hãnh trả lời:
- Giống ba. Chỉ có thế thôi. Giống ba. Giống một mình ba thôi. Và không hề giống bất cứ ai khác trên thế giới này hết.
(...)
Em đi qua một cái công viên cũ, vừa đi vừa hái hoa và tình cờ bước tới một ngã tư có hai dãy phố đầy những hàng rào kín mít. Vẻ hoang vu ở đây làm em nhận ra là mình đã đi lạc đường.Giê-nhi-a chợt trông thấy ngay gần đấy một cô bé đang nắm sừng một con dê bướng bỉnh, vừa lôi đi vừa luôn mồm quát mắng.
- Này đằng ấy ơi, - Giê-nhi-a gọi to,- ra trạm bưu điện đi lối nào hả?
Nhưng lúc đó con dê lồng chạy. No quay sừng phóng một mạch vào công viên. Còn cô bé kia thì vừa la ó, vừa đuổi theo. Giê-nhi-a nhìn quanh: trời tối đến nơi rồi mà chẳng thấy bóng dáng một người nào. Em mở cổng vào một ngôi nhà hai tầng mầu xám rồi bước theo đường mòn tới tận bậc thềm.
Giê-nhi-a không dám mở cửa. Em hỏi to, nhưng rất lễ phép:
- Trong nhà làm ơn cho hỏi thăm đường từ đây ra trạm bưu điện đi lối nào ạ?
Không có tiếng trả lời. Em đứng lặng im suy nghĩ rồi đẩy cửa đi dọc theo hành lang vào một gian phòng. Cả nhà đi vắng. Giê-nhi-a băn khoăn. Em toan quay đi thì bỗng thấy một con chó vàng to tướng chui ở dưới gầm bàn ra. Con chó chăm chắm nhìn vào bộ mặt ngơ ngác của cô bé lạ, rồi nằm lăn ra chắn lối, gầm gừ khe khẽ.
- Mày ngốc lắm!- Giê-nhi-a sợ sệt xoè hai bàn tay ra quát. - Tao có phải là kẻ trộm đâu! Tao không hề lấy một cái gì của nhà mày. Đây là chìa khóa cửa nhà tao. Còn đây là bức điện tao định đi đánh cho ba tao. Ba tao là chỉ huy đấy. Mày hiểu chưa?
Con chó nằm im không hề nhúc nhích. Giê-nhi-a nhè nhẹ bước lại gần ô cửa sổ để mở, tiếp tục nói:
- À! Mày nằm đấy hả? Ừ, cứ nằm im đấy... Mày thật ngoan... Thoáng trông cũng biết là khôn, là dễ thương.
Nhưng Giê-nhi-a chưa kịp đặt bàn tay lên thành cửa sổ thì con chó dễ thương kia đã vội nhảy chồm lên sủa inh ỏi. Giê-nhi-a hoảng hốt nhảy vội lên đi-văng, co cả hai chân lên.
- Lạ nhỉ!- cô bé phát khóc lên. - Mày đi mà bắt bọn kẻ cướp, bọn gián điệp ấy, còn tao đây là người. Này!- Em thè lưỡi ra trêu con chó. - Đồ ngốc!
Giê-nhi-a đặt chiếc chìa khóa cửa và tờ điện báo lên mép bàn. Đành phải đợi chủ nhà về thôi.
Một giờ, rồi hai giờ trôi qua... Trời tối hẳn, xa xa có tiếng còi tàu, tiếng chó sủa, tiếng bóng chuyền. Đâu đó có tiếng đàn ghi ta. Duy ở đây, quanh cái nhà nghỉ mát màu xám này là im lặng, mịt mù.
Giê-nhi-a gối đầu lên thành đi-văng khóc thút thít. Cuối cùng em ngủ thiếp đi.
Đến tận sáng hôm sau, Giê-nhi-a mới tỉnh dậy.
Lùm cây rậm rạp được trận mưa đêm qua gội sạch đang rì rào bên ngoài cửa sổ. Gần đâu đây có tiếng ai kéo nước ở giếng. Và ở chỗ khác lại có tiếng cưa gỗ. Chỉ riêng quanh ngôi nhà nghỉ mát bé nhỏ này là vẫn yên lặng như cũ.
Bây giờ Giê-nhi-a nhận ra dưới gáy em có một chiếc gối da mềm mại và dưới chân em có đắp một tấm chăn mỏng. Còn con chó thì không thấy nằm trên sàn nữa.
Như vậy là đêm qua có ai đã vào đây!
Giê-nhi-a choàng dậy. Em hất ngược mái tóc ra phía sau, vuốt lại nếp áo đã bị nhàu rồi cầm lấy chiếc chìa khóa và tờ điện báo chưa kịp đánh đang để trên bàn. Em toan chạy đi thì vô tình nhìn thấy trên mặt bàn có một tờ giấy viết chữ to bằng bút chì xanh:
"Cô bé, khi nào đi khỏi đây nhớ đóng chặt cửa lại cho". Bên dưới là chữ ký: "Ti-mua".
"Ti-mua? Ti-mua là ai nhỉ? Nhất định phải gặp người này để cảm ơn mới được".
Giê-nhi-a ngó sang phòng bên. Bên đó có một chiếc bàn làm việc. Trên bàn có một lọ mực, một cái gạt tàn thuốc lá và một chiếc gương con. Phía bên phải, ở gần đôi găng tay lái xe có một khẩu súng lục cũ kỹ. Ngay sát bàn lại có một thanh kiếm cong kiểu Thổ Nhĩ Kỳ vỏ đã bong sơn và sây sát. Giê-nhi-a để chìa khóa và bức điện xuống bàn, sờ tay vào đốc kiếm, rồi mạnh dạn rút ra khỏi bao, vung mạnh lên đầu và bước lại gần gương ngắm nghía.
Trông cũng có vẻ oai vệ và dữ tợn đáo để. Giá chụp được một kiểu ảnh như thế này mà mang về trường thì thật là hay. Có thể nói dối là chính em đã có lần được bố cho ra mặt trận. Tay trái có thể cầm thêm khẩu súng lục nữa. Đây. Thế này oách hơn.
Cô bé trợn mắt, bặm môi lại ngắm thẳng vào gương bóp cò.
Tiếng nổ vang dội cả gian phòng. Khói súng che mù cửa sổ. Cái gương để bàn đổ vào cái gạt tàn thuốc lá. Giê-nhi-a hoảng hốt vội bỏ cả chìa khóa lẫn tờ điện báo lại trên bàn, lao thẳng ra cổng, cố thoát cho xa cái ngôi nhà kỳ dị và nguy hiểm này.
Em ra đến bờ sông bằng cách nào cũng không biết nữa. Lúc này trong tay em chẳng còn chiếc chìa khóa căn phòng ở Mát-xcơ-va, cái biên lai để đánh điện và cả tờ điện báo chưa kịp đánh đi cũng mất nốt. Thế là sẽ phải thuật lại mọi chuyện với chị Ôn-ga: từ chuyện con chó, chuyện ngủ lại một đêm trong ngôi nhà vắng chủ, chuyện thanh kiếm Thổ Nhĩ Kỳ và cả chuyện phát súng lục nữa. Thật không may! Giá có ba ở nhà thì ba sẽ thông cảm ngay. Chị Ôn-ga thì không đâu. Nhất định chị ấy sẽ nổi cáu lên, nếu không thì lại khóc. Như vậy sẽ rắc rối hơn. Bản thân Giê-nhi-a cũng biết khóc. Nhưng cứ mỗi lần thấy Ôn-ga khóc là Giê-nhi-a chỉ muốn làm sao leo ngay lên một cái cột điện, một cái cây thật cao, hay là một ống khói trên mái nhà nào đó mà ngồi.
Để lấy can đảm, Giê-nhi-a nhảy xuống sông tắm rồi lặng lẽ đi tìm nhà nghỉ của mình.
Khi em bước đến thềm thì Ôn-ga đang lúi húi thắp cái bếp dầu lửa trong bếp. Nghe thấy tiếng bước chân, chị quay lại và im lặng nhìn Giê-nhi-a đầy vẻ tức giận.
- Chào chị Ôn-ga! - Giê-nhi-a dừng lại ở bậc thềm trên cùng, gượng cười. - Chị không mắng em đấy chứ?
- Nhất định sẽ mắng. - Ôn-ga đáp, mắt vẫn chằm chằm nhìn em.
- Thế thì chị mắng em đi!- Giê-nhi-a ngoan ngoãn chịu lỗi. - Chị ạ, thật là một chuyện hết sức lạ lùng, một cuộc phiêu lưu thật ly kỳ! Chị đừng cau mặt lại thế. Chẳng có gì đáng hoảng hốt cả, em chỉ đánh mất chìa khóa và chưa đánh được điện cho ba thôi...
Giê-nhi-a nheo mắt, lấy lại tinh thần để kể một mạch từ đầu đến cuối. Nhưng vừa lúc đó cánh cổng nhà ken két mở ra. Một con dê lông bờm xờm, dính đầy quả ké đang cắm cổ chạy thục mạng vào sân rồi lao ra vườn. Người chạy đuổi theo con dê ấy lại chính là cô bé chân đất mà Giê-nhi-a đã biết mặt. Nhân cơ hội đó Giê-nhi-a chạy lảng ra vườn, đuổi theo con dê.
Nhưng vừa chạy đến nơi thì cô bé kia đã tóm được sừng dê rồi.
- Này, cậu có đánh mất gì không? - cô bé vừa giơ chân đá con dê tới tấp, vừa rít răng lại hỏi Giê-nhi-a.
Giê-nhi-a không hiểu ý, đáp:
- Không!
- Thế cái này của ai? Không phải của cậu à? - Cô bé đưa cho Giê-nhi-a chiếc chìa khóa căn phòng ở Mát-xcơ-va.
- Của tôi! Giê-nhi-a hoảng hốt liếc nhìn về phía hành lang khẽ trả lời.
- Cậu cầm lấy cái chìa khóa, cái thư và tờ biên lai đánh điện này, còn bức điện thì đã gửi đi rồi, - cô bé vẫn nói liến thoắng và rin rít như lúc nãy.
Cô bé giúi vào tay Giê-nhi-a một gói giấy, rồi đấm luôn cho con dê một cái.
Con dê nhảy chồm lên, chạy thẳng ra phía cổng, cô bé chạy theo như một cái bóng, bất chấp cả bụi ké lẫn lá han. Ra khỏi cổng cả hai đều biến nhanh trong nháy mắt.
Giê-nhi-a so vai lại, như thể chính em vừa bị cô bé kia đấm chứ không phải là con dê. Em mở gói giấy ra xem:
"Đây là chìa khóa còn đây là biên lai đánh điện. Như vậy là đã có ai giúp mình đánh điện đi cho ba rồi. Nhưng ai nhỉ? Ái chà! Có thư đây rồi! Thế này là thế nào nhỉ?"
Trên mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ to ghi bằng bút chì xanh:
"Cô bạn. Ở nhà đừng sợ gì ai. Mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi. Tôi sẽ không nói chuyện với ai đâu". Và ở dưới lại có chữ ký: "Ti-mua".
Như người mất hồn, Giê-nhi-a nhét mảnh thư vào túi. Sau đó em vươn thẳng vai lên, bình tĩnh bước lại chỗ Ôn-ga. Ôn-ga vẫn đứng im bên bếp dầu hỏa còn chưa kịp châm lửa, nước mắt vòng quanh.Giê-nhi-a thấy vậy bèn thốt lên đau đớn:
- Chị Ôn-ga ơi. Em đùa đấy mà. Có chuyện gì đáng để chị phải giận em đâu? Em đã dọn sạch sẽ các phòng, em lau cả cửa kính, em lại còn cố giặt hết cả giẻ lau, lau hết cả mặt sàn rồi còn gì nữa. Đây, chị cầm lấy chìa khóa. Còn đây là biên lai điện đánh đi cho ba. Nào, chị cho em hôn chị một cái. Em yêu chị vô cùng. Chị có biết không! Chị có muốn vì chị mà em có thể nhảy từ trên mái nhà xuống bụi lá han kia không?
Và không đợi chị trả lời, Giê-nhi-a cứ thế chạy lại ôm chầm lấy cổ chị.
- Phải... chị lo phát sốt lên đấy!- Chị Ôn-ga tỏ vẻ thất vọng.- Cái lối đùa của em thật là ngốc... Ba đã dặn chị là... Thôi, Giê-nhi-a! Tay chị dầu hoả đây này! Giê-nhi-a, em đổ sữa vào xoong rồi đặt lên bếp đi!
Khi Ôn-ga đã ra đến chậu rửa mặt, Giê-nhi-a vẫn còn lẩm bẩm:
- Nhưng em... không đùa thì không chịu được.
Giê-nhi-a vừa đặt xoong sữa lên bếp dầu lửa vừa đưa tay vào túi lần tờ giấy nhỏ. Em hỏi:
- Chị Ôn-ga này, có ông Trời không nhỉ?
- Làm gì có!- Ôn-ga đáp rồi cúi mặt xuống chậu nước.
- Thế có ai?
- Thôi đi!- Ôn-ga khó chịu trả lời. - Chẳng có ai hết.
Giê-nhi-a im lặng một lát rồi lại hỏi:
- Chị Ôn-ga này, Ti-mua là ai?
- Đấy không phải là ông Trời mà là một ông vua, - Ôn-ga vừa thoa xà phòng lên mặt, lên tay, vừa miễn cưỡng trả lời. - Đó là một ông vua thọt thời trung cổ ác có tiếng.
- Thế nếu không phải là vua, không ác và cũng không sống ở thời trung cổ thì chị bảo là ai?
- Thế thì chị chịu. Thôi, đủ rồi đấy! Mà cái Ti-mua đấy có việc gì đến em?
- Việc gì đến em ở chỗ là hình như em rất yêu người ấy thì phải.
- Ai? - Ôn-ga không hiểu, vội ngẩng khuôn mặt đầy những xà phòng lên, hỏi em. - Em nói lảm nhảm cái gì thế. Toàn bịa chuyện lăng nhăng, không để cho người ta rửa mặt nữa! Cứ đợi đấy, rồi ba về ba sẽ bảo cho mà biết cái chuyện yêu với ghét ấy.
- Ba về thì có sao! -Giê nhi-a thốt lên, giọng vừa đau khổ lại vừa thiết tha. - Ba có về cũng chẳng ở nhà được bao lâu. Và tất nhiên không bao giờ ba lại nỡ tâm làm cho một con người đơn độc và yếu đuối phải khổ.
- Em đơn độc và yếu đuối à? - Ôn-ga hoài nghi hỏi lại. - Trời ơi, Giê-nhi-a ơi, chị cũng chẳng hiểu em là một đứa bé như thế nào và giống ai nữa!
Nghe thấy vậy Giê-nhi-a bèn cúi thấp đầu xuống để ngắm lại gương mặt mình in lên cái ấm đun nước mạ kền, rồi không do dự, kiêu hãnh trả lời:
- Giống ba. Chỉ có thế thôi. Giống ba. Giống một mình ba thôi. Và không hề giống bất cứ ai khác trên thế giới này hết.
(...)
Đã có 2 nỗi niềm tâm tư (không tính facebook),
Giơ tay bi bô phát biểu bằng nick Google, WordPress...
Bi bô bằng nick facebook, Yahoo...