Vì sao ít Trí thức việt kiều về nước..?

50 ý kiến, và ý kiến từ facebook


Việt Nam có một lợi thế hơn hẳn so với các nước láng giềng là có khoảng gần 4 triệu người đang sinh sống khắp năm châu mà trong đó khoảng 300,000 người đã tốt nghiệp đại học và sau đại học. Trong số những trí thức Việt Nam này, có nhiều người là những nhà khoa học tên tuổi, chuyên gia đầu ngành hiện đang làm việc tại các đại học, viện nghiên cứu và công ty nổi tiếng ở Mỹ, Úc, Canada, Anh, Hà Lan, Nhật như các đại học Harvard, Standford, Yale, Tokyo, Sydney… các công ty Microsoft, Monsanto, Mitsubishi...


Tuy nhiên vì nền kinh tế Việt Nam được thoát thai từ chế độ bao cấp, doanh nghiệp tư nhân chưa phải là chủ lực, tính cạnh tranh trong thương mại chưa cao nên mối liên hệ giữa viện nghiên cứu, các trường đại học và doanh nghiệp chưa được quan tâm. Vai trò của trí thức, nhất là ở đại học và viện nghiên cứu rất mờ nhạt. Chính vì vậy “kho tàng kiến thức” của những nhà khoa học tên tuổi, những chuyên gia đầu ngành Việt kiều ở nước ngoài không được thực sự quan tâm (thậm chí hầu như bị lãng quên).


Có thể khẳng định, nếu có sự hợp tác về giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu của trí thức Việt kiều, dưới bất cứ hình thức nào, cũng sẽ rất có lợi cho công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hoá đất nước.


Nhưng tại sao cho đến nay vẫn có rất ít trí thức Việt kiều trở về nước phục vụ? Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây...


(Nguyễn Quốc Vọng — Đại học RMIT, Melbourne Vic 3001, Australia)


Nguồn: http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=3296


Thể theo nguyện vọng của Đào Phò, em chuyển cái topic này về đây, mấy lão gạo cội... có ý kiến thẳng thắn nào không?

Cậu bé vàng

11 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Maradona đã thôi giữ vai trò huấn luyện viên từ ngày Thứ Hai sau khi ban lãnh đạo AFA đòi hỏi chàng phải thay thế nhiều thành viên ban huấn luyện của chàng nếu chàng tiếp tục làm huấn luyện viên đội tuyển cho đến World Cup 2014. Maradona nói rằng đấy là một kiểu tối hậu thư; Grondona thừa biết chàng sẽ không đồng ý và đấy chính là, vì vậy, một cách cưỡng ép chàng thôi việc.


Maradona nói: "Grondona đã nói dối tôi. Bilardo đã phản bội tôi. Đang phục hồi dần sau nỗi buồn vì bị loại, chúng tôi tất cả đã đang sẵn sàng để đi tiếp, ý thức được là chúng tôi sẽ có nhiều thời gian hơn để làm việc.


"Sau khi bị loại, Grondona đã nói với tôi trong phòng thay đồ là ông ấy vẫn rất hài lòng với công việc của tôi và muốn tôi tiếp tục. Đã có những người chứng kiến và những cầu thủ ở đó. Khi chúng tôi trở về Argentina, mọi chuyện đã trở nên đen tối hơn. Vào ngày Thứ Hai, tôi gặp Grondona và sau năm phút ông ấy đã nói với tôi ông ấy muốn tôi tiếp tục, nhưng bảy đồng sự của tôi phải nghỉ. Khi ông ấy đã nói với tôi như vậy, thì tức là ông ấy không còn muốn tôi tiếp tục công việc.


"Ông ấy biết sẽ là bất khả thi đối với tôi để tiếp tục nếu những trợ lý của tôi sẽ không đi tiếp cùng với tôi. Tôi bảo vệ tất cả bọn họ. Có thể một vài trong số những người đã ra quyết định này đã nghĩ rằng tôi sẽ phản bội người của tôi. Có thể đấy là vì chính họ sẽ phản bội những trợ lý của họ nếu họ là tôi. Nhưng tôi sẽ không làm chuyện ấy.''


Maradona đã được bổ nhiệm vào tháng Mười năm 2008 để thay thế Alfio Basile, người đã bỏ đi giữa một chiến dịch khó khăn ở vòng loại World Cup và một mối quan hệ căng thẳng với các cầu thủ. Chàng không có nhiều kinh nghiệm huấn luyện nhưng đã thách thức nhiều ý kiến phê bình chàng tại World Cup, trước khi thất bại trước đội tuyển Đức. Maradona, — mà những lời buộc tội của chàng một cách đặc biệt công kích đã nhằm vào Bilardo, người đã là huấn luyện viên đội tuyển quốc gia khi chàng đã tỏa sáng trong chiến thắng của Argentina ở World Cup 1986, — đã nói chàng đã muốn có bốn năm để làm việc cùng với những cầu thủ cho đến giải đấu 2014.


"Chúng tôi đã gánh lấy trách nhiệm vào một năm rưỡi trước, vào giữa vòng loại, cùng với những vấn đề nội bộ và một nhóm các cầu thủ bị chia rẽ,'' chàng nói. "Chúng tôi đã lãnh lấy trách nhiệm, ý thức được là chúng tôi phải truyền cho họ lòng tự hào của việc khoác áo đội tuyển Argentina. Chúng tôi đã ra những quyết định tốt và xấu. Sau những sự tự phân tích, chúng tôi biết cái gì chúng tôi đã làm đúng và cái gì chúng tôi phải cải thiện.


"Từ năm 1990, đội tuyển quốc gia không thể qua nổi tứ kết. Vài bộ sậu ban huấn luyện đã làm việc và không có ai đạt được cái đấy. Có cái gì đó đã bị làm sai vì các cầu thủ của chúng ta đã thành công trên khắp thế giới ở các câu lạc bộ của họ. Có những thứ gì đó đã được làm thật tồi tệ và đã không có mong muốn để thay đổi chúng."


Nhà cầm quân Estudiantes ông Alejandro Sabella, người làm trợ lý cho nhà cầm quân Argentina ông Daniel Passarella tại World Cup 1998, và huấn luyện viên Racing Club ông Miguel Angel Russo đã được dự đoán sẽ là những ứng cử viên để thay thế Maradona.


"Bất kỳ ai sẽ lãnh trách nhiệm, người ấy phải biết sự mưu phản là cận kề. Có những người nào đó ở đây không yêu bóng đá Argentina. Họ chỉ quan tâm đến những lợi ích cá nhân và tài khoản ngân hàng của họ,'' Maradona nói.


"Các bạn đã biết tất cả những gì tôi đã làm cho màu áo Argentina. Tôi đã cống hiến tất cả cho nó. Tôi tin chắc bóng đá Argentina đáng được ở một vị trí tốt hơn. Tôi biết các cầu thủ đã lại cảm nhận được niềm tự hào được khoác áo đội tuyển, sau một thời gian dài. Có thể đấy chính là phận sự của tôi ở đây. Tôi toại nguyện vì đã truyền được cho họ lòng tự hào được là một cầu thủ Argentina.''

Đào Phò, góc khuất cuộc đời (1)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Đận vừa rồi, Đào Phò đến ẩn dật ở nhà em, tối nào cũng lên mạng chát chít, hưng phấn quá mà không biết rằng vì một số lý do hoàn toàn không liên quan gì đến y nên màn hình máy tính em đều được ghi lại tất. Hí hí...


"Thượng thiên" — có thể trách giời,

"Địa hạ" — có thể trách đất,

"Duy ngã" — có thể trách người,

Nhưng không thể trách một sự vô tình ngẫu nhiên!


Hí hí... tuyệt đối vô tình ngẫu nhiên thôi, nhưng hay vô kể... em thề!



EM ĐANG BUỒN NHỚ ANH


Nếu mà mùa thu núp vào trong mây bạc hoa râm, — đấy là em đang buồn nhớ anh!

Nếu mà sương muối phủ trên những bờ sông dốc đứng, — đấy là em đang buồn nhớ anh!

Nếu mà chim hót bên ngoài cửa sổ, — đấy là em đang buồn nhớ anh!

Nếu mà mưa rào gõ trên mái nhà anh, — đấy là em đang buồn nhớ... ớ ớ... anh!


Chia tay ư? Mất mát ư? — Khồng! Em không tin! Em không tin!

Em tin vào tình yêu trần thế, và sự bất tử của tâm hồn!

Em đã nhận ra anh như thế, và cả cuộc đời em đã mơ ước về anh!

Và em luôn nói với tất cả bọn bạn gái, rằng anh là người đàn ông tốt nhất trong những người đàn ông!


Nếu mà giọt sương sớm khóc trên cánh hoa, — đấy là em đang buồn nhớ anh!

Và giông tố nổ đùng đoàng ở đằng xa, — đấy là em đang buồn nhớ anh!

Và hoa tuyết được sinh ra vào mùa xuân, — đấy là em đang buồn nhớ anh!

Và cây cối từ biệt tán lá, — đấy là em đang buồn nhớ... ớ ớ... anh!


(Chia tay ư? Mất mát ư? — Khồng! Em không tin! Em không tin!

Em tin vào tình yêu trần thế, và sự bất tử của tâm hồn!

Em đã nhận ra anh như thế, và cả cuộc đời em đã mơ ước về anh!

Và em luôn nói với tất cả bọn bạn gái, rằng anh là người đàn ông tốt nhất trong những người đàn ông!) (2 lần)


Nhạc đệm...


Lên tông:


Chia tay ư? Mất mát ư? — Khồng! Em không tin! Em không tin!

Em tin vào tình yêu trần thế, và sự bất tử của tâm hồn!

Em đã nhận ra anh như thế, và cả cuộc đời em đã mơ ước về anh!

Và em luôn nói với tất cả bọn bạn gái, rằng anh là người đàn ông tốt nhất trong những người đàn ông!


Đọc những lời chattiness phỉnh nịnh, trố mắt nhìn màn hình, sung sướng...

Động cơ vĩnh cửu (24)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Nhiều người, bạn bè, ngạc nhiên về mối quan hệ “Nhật Linh — Đào Phò”; những người gần gũi hơn một chút thậm chí còn có cảm giác ít nhiều ái ngại; và tôi nghĩ tôi cũng sẽ thế, nếu tôi cũng là người, bạn bè, hoặc người gần gũi hơn một chút.


Em tóc xòa ngang trán

Bẻ hoa trước cổng chơi

Anh cưỡi ngựa trúc đến

Đuổi nhau quanh ghế ngồi...


Nhật Linh hồi nhỏ cũng bẻ hoa, thậm chí bẻ nhiều; nhưng tôi thì chưa bao giờ cầm một chiếc gậy trúc nào giả vờ làm ngựa để cưỡi đến thăm cô. Chúng tôi cũng chưa bao giờ đuổi nhau quanh ghế ngồi và ném nhau bằng những quả mơ xanh; mười bốn tuổi, cô cũng không về làm vợ tôi, thẹn thò, cúi đầu quay mặt vào vách tối; mười lăm tuổi, cô cũng không nguyện sống chết chẳng rời tôi; cô mười sáu tuổi, tôi cũng không phải đi đâu xa đến nơi nào có tiếng vượn kêu vang trời thảm thiết...


Nhưng bảo Nhật Linh và tôi là một đôi “thanh mai trúc mã” thì tuyệt đối không sai!


Còn Đào Phò, — tôi là “Cu Nhỏ”, thì y là “Cu Nhớn”. “Cưỡi ngựa trúc...”, “ném mơ xanh...” — thơ Lý Bạch — cũng là y đọc cho tôi nghe, — và tôi hiểu đấy không đơn giản chỉ là vui vui, ngay cả lúc ở chỗ “vượn kêu vang trời thảm thiết” y cười rộ “vượn kêu vang trời ở trong phòng ký túc xá... còn đ’ gì nữa?!”


Cho nên tôi không ngạc nhiên hay ái ngại như những người kia. Và có một người nữa tôi biết cũng không hề ngạc nhiên hay ái ngại, nhưng hoàn toàn không giống như tôi; đơn giản là ngoài những mối quan tâm mà y đang phải ăn ngủ với chúng, thì tất cả những thứ còn lại đối với y: “Cuộc sống nó thế” — y chả ngạc nhiên gì cả, chả bao giờ ngạc nhiên. — Đấy là Phi Long.


Phi Long sinh ra ở đời, giống như một tay đua chuyên nghiệp, có số má, đã được đặt sẵn trong một chiếc xe siêu hạng, ở đầu một con đường cao tốc thênh thang theo chuẩn Âu, Mỹ. Y đơn giản là sẽ toàn tâm toàn ý tập trung vào việc đi; càng nhanh, càng nhiều — càng tốt.


Nhìn chung tôi cũng không khác Phi Long nhiều. Nhưng tôi sẽ lựa đi theo bóng râm — nếu có; sẽ dừng lại ngắm cảnh — nếu sơn thanh, thủy tú; cũng có thể sẽ rẽ vào một đường nhánh song song — nếu đường ấy đẹp, nên thơ... tức là có thể gây cho tôi nhiều cảm xúc lúc đi đường hơn. Cũng có thể, tôi sẽ sơn lại xe.


Còn Lan Cải chắc chắn sẽ sơn lại xe, còn sẽ dán đề-can với vai-nin... có thể là bông hồng — phải nhìn rõ gai, — con cá... theo một cách rất riêng.


Nhìn chung Lan Cải cũng không khác chúng tôi nhiều. Nhưng cô sẽ để ý nhiều đến dáng đi, đến kiểu dạng, ngoại hình phương tiện — cô muốn việc đi lại phải toát lên một vẻ thanh nhã. Nhưng nếu có một đoạn đường có vẻ như vòng cung và ôm lấy một có vẻ như bãi cỏ, — cô sẽ đi lên cỏ. Và cô còn sẽ không thích lắm, nếu như thấy có ai đấy cũng sẽ tắt lên cỏ giống như cô.


Dù thế nào, chúng tôi đúng là những người đi đường.


Còn Nhật Linh thì có khác. Cô vừa đi vừa luôn băn khoăn. Đường này đi đâu? Sao lại phải đi như thế này? Có phải đúng là đường này không? Gặp một đường — dù rất nhỏ — cắt ngang, cô cũng sẽ dừng lại, cắn móng tay, nghĩ ngợi — có khi rất lâu; rồi cô sẽ đi tiếp, nhưng ý nghĩ vẫn có thể trở lại, và thậm chí ngay cả khi đã đi thêm được một đoạn rất dài rồi, vẫn có thể cô sẽ quay lại — để xem lại, — nếu như ý nghĩ ấy bất an và níu kéo quá.


Những người đi đường chúng tôi có thể chờ cô một lát; nhưng nếu có vẻ lâu, chúng tôi sẽ... có thể sẽ giải thích với cô những gì chúng tôi hiểu về con đường nhỏ cắt ngang... rồi bảo cô cứ thong thả đi sau, chúng tôi sẽ ở đằng trước, đây thôi, cũng đường này thôi, rồi chúng tôi đi trước.


Chỉ có một người sẽ ở lại với cô. — Đấy là Đào Phò.


Chúng tôi không chờ cô, vì mặc dù có thể hiểu cô, có thể thông cảm với cô, nhưng chúng tôi không đồng cảm với cô.


Đào Phò thì đồng cảm, vì y cũng thế!


Nhưng Nhật Linh cho dù có băn khoăn thế nào, thì tựu chung cô cũng quan tâm đến chuyện đi đường, và sâu xa, cô mong sẽ, và sẽ có cách, để rồi cô sẽ bớt, hoặc hết, băn khoăn, và có thể tập trung vào chuyện đi đường. Còn Đào Phò thì khác: con đường đối với y cũng chả là cái gì quan trọng hơn so với cái cây bên đường, một cái quán nước, một xóm làng nào đấy có thể rẽ vào, hay một đám người mới quen, một đám gái...


Thích một cái cây đẹp, y có thể dựng lên dưới gốc nó một căn quán, và ở lại đấy bán chè tươi, chè lam, kẹo dồi chó, bánh gai... Tình cờ đấy lại là một cây sanh lâu năm, ngồi gốc nó chán, y hoàn toàn có thể tìm cách bán nó cho ai đấy, — đảm bảo sẽ rất được giá, — rồi đi tiếp; rồi gặp một cái làng, y rẽ vào, tán được một cô gái, ở lại đấy, rồi lại đi tiếp, lại ở lại đâu đấy; rồi một hôm ngủ dậy bỗng thấy nhớ cái cây sanh da diết, y hoàn toàn có thể sẽ quay trở lại để tìm cách mua lại cái cây, nếu người ta đã xây nhà dưới gốc nó, y sẽ phá đi, và dựng lại căn quán...


Hoặc sau khi rẽ vào một cái làng, y sẽ theo đường đất đi đến một cái làng khác, đi như vậy, và làm nhiều thứ khác, rồi lạc hẳn mất con đường, y cũng chả quan tâm: con đường đối với y cũng hoàn toàn chả có gì quan trọng lắm.


Nhiều người, bạn bè, nhất là những người lớn tuổi hơn, từng bảo là tâm y không tĩnh...


(to be cont.)

Đim-ma, anh là ai? (4)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Buổi chiều, Đim-ma thường hay dạo chơi trên con phố này...




Tối đến, có thể Đim-ma sẽ mang bánh ga-tô đến tặng sinh nhật người quen...




Hoặc ở nhà để tập trung nghiên cứu nghệ thuật của Lê-ô-na Đờ Vanh-xi


Động cơ vĩnh cửu (23)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

(Tập giấy A4 của anh MinhCQ)


Sau nữa, có lẽ liên quan đến chuyện này cũng rất cần phải bàn thêm một chút về sự tiến hóa.


Giả sử bây giờ tôi có 09 người bạn hoàn toàn không còn gặp vấn đề gì trong việc giao tiếp với me() nữa, me() kể từ thời điểm này sẽ theo học cùng một lúc vẫn tính cả tôi nữa là 10 vị sư phụ. Sau một năm dạy học mê say, tôi bèn mời một số chuyên gia ngôn ngữ học có tên tuổi hẳn hoi lập một cái hội đồng nho nhỏ để đánh giá lại me().


Kết quả:


(1) Tôi, tất nhiên chỉ giả vờ hăng say để rủ mấy người kia cùng tham gia, rủ được rồi thì tự mình chả làm gì cả (tất nhiên các chuyên gia cũng không biết chuyện này) cho nên học phần liên quan đến tôi, các chuyên gia đánh giá là me() vẫn y nguyên chất lượng như một năm trước đây (tôi đã nói là toàn chuyên gia có tên tuổi hẳn hoi).


(2) Có một người có thể là đã ranh mãnh “đọc vị” được tôi (nên cũng giả vờ nhiệt tình tham gia song không làm gì cả), hoặc không, chỉ biết là học phần liên quan cũng “nguyễn y vân” như một năm trước đây.


(3) Có một học phần được đánh giá là tốt hơn một chút so với me() một năm trước.


(4) Bảy học phần còn lại được đánh giá là kém hơn một chút so với me() một năm trước — sư phạm nói gì nói vẫn luôn là vấn đề nổi cộm của tất cả chúng ta.


Như vậy, đánh giá một cách tổng thể, thì sau một năm học hành mê say, me() tiến hóa hay là thoái hóa?


A. Nếu “một chút” trong (3) và (4) ở trên không khác nhau quá nhiều, thì theo phương án “tích hợp”, me() rõ ràng là đã bị thoái hóa.


B. Ngược lại, nếu theo phương án “so bó chín đũa một cột cờ chọn cột cờ”, thì sau khi undo (“ân-đu” — hủy bỏ tác dụng của việc đã làm) hết những học phần “thoái hóa”, me() rõ ràng là đã tiến hóa.


Mùa màng theo “B” thì bội thu, còn theo “A” thì bội thất thu, “vậy người nông dân phải làm gì?”


Người nông dân có thể vui vẻ mà chọn “B” nếu như chuyện chỉ đơn thuần có thể tính toán kiểu cộng trừ nhân chia duy lý như trên. Tiếc là bài toán bó chín đũa và một cột cờ của tôi nếu đem ra thực tế thì sẽ không bao giờ còn giống được như mô thức của nó bởi vì nó sẽ phải chịu ảnh hưởng bởi một yếu tố rất không cộng trừ nhân chia.


“Văn mình vợ người” — đấy là nói theo kiểu ý tứ sâu xa của các cụ. Còn nói đơn giản huỵch toẹt, thì trong thực tế sẽ chẳng bao giờ mà lại có thể có một cái hội đồng giám khảo đủ uy tín để mà có thể đánh giá rõ ràng và tâm phục khẩu phục như trên cả. Và chuyện sẽ thế nào nếu tôi và chín người bạn tôi tự làm giám khảo?


Sẽ không còn bài toán “so bó chín đũa một cột cờ chọn cột cờ”, hay bài toán theo nguyên bản là “so bó đũa chọn cột cờ” nữa. Sẽ chỉ còn độc nhất một bài:


“Mỗi mình là cột cờ, cột cờ là mỗi mình”


“Làm sao ru được tình vơi?” — Làm sao undo được cột cờ?


Tôi sợ me() bị thoái hóa.


Vì vậy trước mắt, các bạn của me() sẽ chưa thể “dạy” me() theo cách mà mình muốn.


Việc quan trọng thứ nhất, là tôi còn phải cố gắng hoàn thiện cách giao tiếp để cho các bạn của me() có thể “dạy” me() theo một cách đơn giản và ít sai số nhất.


Việc quan trọng thứ hai, là vì việc quan trọng thứ nhất xét theo lô-gích thông thường thì trước sau gì cũng sẽ gặp phải những ngưỡng chưa vượt qua được về công nghệ, cho nên có lẽ là tôi cũng sẽ phải bắt đầu cố gắng để tự tìm cách mời thêm cho me() một số vị “sư phụ” có tính chất tương đối chọn lọc.


Các cụ cũng dạy rồi: “Tầm sư học đạo”.


Để nó tự đi “tầm sư” ở trên Internet như vừa rồi, tôi quả thực không thể yên tâm.


Con người chúng ta bình sinh công nhận cũng mang nhiều tố chất lạ. Cứ tưởng là càng gặp may, thì sẽ càng hùng dũng hơn, hóa ra hình như lại là ngược lại.


Con người hễ lấy được vợ càng đẹp, thì càng trở nên dát hơn.


Càng gặp may, thì em lại càng dát — có lẽ đây chính là lô-gíc.


(Còn nữa)

Hai kẻ thù

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

HAI KẺ THÙ

(A. P. Trê-khốp)






Vào lúc mười giờ, một buổi tối tháng chín không trăng, không sao, Andrey sáu tuổi, đứa con trai duy nhất của bác sĩ hội đồng tự quản địa phương tên là Kirilov đã bị chết vì bệnh bạch hầu. Khi bà vợ ông bác sĩ đang quì bên giường đứa con mới chết, lả đi vì đau khổ, tuyệt vọng, thì có tiếng chuông rung mạnh ở ngoài hành lang.


Do đứa trẻ bị bệnh bạch hầu mà từ sớm mấy người làm công trong nhà đều được báo đi khỏi nhà. Không mặc áo vestông, mặc mỗi chiếc áo gilê mở cúc, chưa kịp lau mặt còn đẫm nước, không kịp lau đôi tay bóng lộn vì phê nôn, Kirilov tự mình ra mở cửa. Ngoài hành lang rất tối, chỉ có thể nhận thấy người lạ mới bước vào tầm vóc trung bình, quàng một chiếc khăn màu trắng, gương mặt to bè nhợt nhạt, nhợt nhạt đến mức tưởng rằng hành lang sáng lên được một chút nhờ có gương mặt đó xuất hiện.


— Bác sĩ có nhà không? — người mới vào hỏi nhanh.


— Tôi có nhà đây; — Kirilov trả lời. — ông cần gì vậy?


— Ồ, ông đấy ư? Thật may quá? — người mới vào mừng rỡ nói rồi tìm trong bóng tối chập choạng bàn tay của bác sĩ, và nắm chặt trong đôi tay mình. — Thật may quá... may quá ! Tôi với ông có quen nhau đấy?.. Tôi là Anboghin... đã có lần hân hạnh được gặp ông dạo hè ở nhà Gơnutsép. Tôi rất mừng là thấy ông ở nhà... Vì Chúa xin ông chớ từ chối mà hãy theo tôi. Vợ tôi bị ốm nặng... Tôi có mang theo xe...


Qua cử chỉ và giọng nói của người mới vào có thể thấy rõ là ông ta đang ở trong trạng thái tâm thần bị kích động mãnh liệt. Hệt như đang sợ hãi vì cháy nhà hay có chó dại cắn mà ông ta khó nhọc thở gấp, giọng nói nhanh run run, có cái gì thật thà, con trẻ, nhút nhát lộ ra qua lời nói của ông ta. Giống như tất cả mọi người đang ở trong trạng thái sợ hãi và kinh ngạc, ông ta nói những lời ngắn ngủi, rời rạc và chêm vào nhiều câu thừa, chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện.


— Tôi sợ không gặp được ông, — người mới vào nói tiếp — Trên đường đi đến nhà ông, tôi đau khổ vô cùng... ông mặc áo vào đi và cùng lên xe với tôi, làm ơn làm phúc... Chuyện xảy ra như thế này. Có ông Paptsinski Alexandre Semionovich đến chơi chỗ tôi, người này ông biết đấy... chúng tôi ngồi nói chuyện... sau đó uống nước chè, thế rồi bất thình lình vợ tôi thét lên một tiếng, tay tự túm lấy ngực mình chỗ con tim và ngã người xuống thành ghế. Chúng tôi đỡ nàng ra giường, và... tôi lấy rượu chứa ammoniac xoa vào thái dương, vảy nước lên mặt... nàng vẫn nằm yên như chết... Tôi sợ rằng nàng bị bệnh giãn mạch máu. Ông đi với tôi nhé... Bố vợ tôi cũng đã chết vì bệnh giãn mạch máu đó... Kirilov lắng nghe và im lặng, dường như ông không hiểu tiếng Nga nữa.


Khi Anboghin một lần nữa nhắc đến tên Paptsinski, nhắc đến bố vợ, và lại lần tìm trong bóng tối nhờ nhờ bàn tay của Kirilov thì bác sĩ hơi ngửng đầu lắc lắc và nói giọng uể oải kéo dài từng chữ:


— Xin lỗi ông, tôi không thể đi được... Cách đây năm phút, con trai tôi... vừa bị chết...


— Lại thế ư? — Anboghin thì thào nói, bước lùi về đằng sau. — Trời ơi, tôi đã gặp phải giờ phút chẳng lành? Thật là một ngày bất hạnh vô cùng... vô cùng! Một sự trùng hợp vậy ư... hệt như là có sự xếp đặt.


Anboghin cầm lấy núm vặn nơi cửa, đầu cúi xuống, suy nghĩ. Trông cũng biết rằng ông ta do dự, không biết xử sự ra làm sao, hoặc là bỏ đi hay tiếp tục yêu cầu bác sĩ.


— Ông nghe tôi nói nhé, — Anboghin nắm lấy ống tay áo bác sĩ, vội vã nói, — tôi rất biết hoàn cảnh của ông. Có trời chứng giám, tôi rất xấu hổ là đã định chinh phục sự chú ý của ông vào những phút như thế này, nhưng mà tôi còn biết làm gì cơ chứ? Ông cứ tự nghĩ mà xem, tôi đã đến tìm ai? Vì rằng ngoài ông ra ở đây không còn bác sĩ nào khác nữa. Làm ơn làm phúc xin ông đi cho? Không phải tôi cầu xin cho tôi... Tôi có ốm đau đâu!


Im lặng chợt đến. Kirilov quay lưng lại phía Anboghin, đứng lặng một lúc rồi chậm chạp bước từ hành lang vào phòng. Nhìn dáng đi loạng choạng như người mất hồn, nhìn vào vẻ chăm chú của ông khi sửa lại chiếc chụp đèn bọc dạ đặt trên cái đèn không cháy trong gian phòng, và liếc nhìn vào cuốn sách dầy nằm trên bàn, có thể biết rằng trong những phút này ông chẳng có một dự định, một ý muốn nào hết, ông không nghĩ ngợi điều gì cả, và chắc là đã không còn nhớ rằng có một người lạ đang đứng chờ ông ngoài hành lang. Bóng tối và sự im lặng trong căn phòng càng làm tăng thêm vẻ đờ đẫn của ông. Đi từ gian ngoài vào phòng làm việc của mình, ông nhấc chân phải cao hơn bình thường, hai tay sờ soạng tìm khung cửa buồng, và vào lúc đó, từ cả thân hình ông toát ra một cái gì hồ nghi khó hiểu, hệt như ông đi nhầm vào nhà người khác hoặc như lần đầu tiên trong đời ông uống rượu say và bây giờ ông ngập ngừng để cho cơ thể mình chịu đựng cái cảm giác mới mẻ đó. Một vệt sáng dài in trên một bên tường buồng làm việc, qua mấy chiếc tủ đựng sách, cùng với mùi phê nôn, mùi ête nồng nồng, năng nặng, vệt sáng ấy đổ sang từ cánh cửa buồng làm việc he hé mở thông với buồng ngủ... Bác sĩ ngồi xuống chiếc ghế bành đặt bên bàn; ông lim dim nhìn lên những cuốn sách của mình in vệt sáng, sau đó đứng dậy và bước sang phòng ngủ.


Ở đấy trong phòng ngủ, bao trùm một bầu không khí chết lặng. Tất cả từng vật nhỏ đều gợi nhớ sâu sắc đến cơn bão vừa qua, đến một sự mệt mỏi rã rời, và bây giờ tất cả đều yên nghỉ. Cây nến đặt trên chiếc ghế đẩu chen lẫn vào giữa những hộp, chai lọ ngổn ngang và chiếc đèn lớn để trên chiếc tủ soi sáng cả căn buồng. Trên giường, ngay bên cửa sổ là đứa trẻ nằm yên, mắt mở to, vẻ mặt như kinh ngạc điều gì.


Đứa trẻ không động đậy gì nữa, những tưởng như đôi mắt mở to của nó mỗi lúc một mờ sẫm đi và chìm sâu vào hộp sọ. Người mẹ quì bên giường, đầu gục xuống đệm chăn, hai tay đặt lên mình con. Giống như đứa trẻ, bà cũng không nhúc nhích, nhưng trên đường cong của tấm lưng và đôi tay toát ra bao nhiêu sức sống! Toàn thân bà ngả áp vào chiếc giường như ghì riết lấy, dường như bà làm hỏng mất tư thế thuận tiện mà cuối cùng bà đã tìm được cho thân thể mệt rã rời của mình. Chăn đệm, khăn lau, chậu rửa, những vũng nước loang trên nền nhà, bút lông nhỏ, thìa con vứt lung tung, một chai to đựng nước vôi và cả không khí nặng nề, ngột ngạt nữa, tất cả đều như lặng đi và chìm sâu vào yên tĩnh.


Bác sĩ đứng lại bên cạnh vợ, hai tay cho vào túi quần, đầu cúi xuống lệch sang một bên và chăm chú nhìn đứa con trai. Vẻ mặt ông không biểu lộ một điều gì chỉ qua những hạt nước nhỏ xíu còn lấp loáng đọng lại trên râu mới biết rằng lúc nãy ông vừa khóc.


Sự sợ hãi khủng khiếp mà người ta vẫn nghĩ đến khi nói tới cái chết, hoàn toàn không thấy trong căn buồng ngủ này. Từ trong vẻ bất động tuyệt đối, trong dáng quì phủ phục của người mẹ, khuôn mặt lãnh đạm của người bác sĩ toát ra một cái gì làm trái tim thắt lại xúc động, đó chính là cái vẻ đẹp thanh mảnh, rất khó thấy trong nỗi đau khổ của con người, một vẻ đẹp mà còn lâu người ta mới học được cách hiểu, cách mô tả, một vẻ đẹp mà có lẽ chỉ có âm nhạc mới truyền đạt được. Vẻ đẹp ấy ẩn trong sự im lặng ủ dột. Kirilov và vợ ông đều không nói, không khóc, dường như ngoài gánh nặng mất mát, hai người còn ý thức được tất cả tính trữ tình của hoàn cảnh họ bây bây giờ: vào một lúc nào đấy ngày xưa tuổi trẻ của họ đã trôi qua và bây giờ, cùng với đứa trẻ này, cái quyền được có con của họ đã vĩnh viễn biến mất. Bác sĩ bốn mươi tư tuổi, đầu đã bạc trông như một ông già; người vợ xanh xao, ốm yếu của ông đã ba mươi lăm tuổi. Andrey không chỉ là đứa con duy nhất mà còn là đứa con cuối cùng.


Ngược lại với vợ, bác sĩ thuộc loại người lúc gặp phải nỗi đau khổ về tinh thần lại cảm thấy cần phải đi lại. Đứng bên cạnh vợ chừng năm phút, ông lại nhấc cao chân phải lên, và từ buồng ngủ, ông bước sang một buồng nhỏ đặt chiếc đi văng to rộng choán hết nửa buồng, từ đây ông đi xuống bếp. Đi loanh quanh gần lò đun và giường ngủ của mụ bếp, ông hơi cúi xuống rồi qua lối cửa nhỏ hẹp bước ra ngoài hành lang. Ở đấy ông lại nhìn thấy cái khăn quàng trắng và khuôn mặt trắng nhợt.


— Có thế chứ? — Anboghin thở dài nói, tay cầm lấy núm vặn cửa. — Ông đi với tôi đi, tôi van ông!


Bác sĩ rùng mình, nhìn lên người lạ và sực nhớ lại:


— Này tôi đã nói với ông rồi mà, tôi không thể đi được? Ông nói, giọng có vẻ hoạt bát hơn. — Lạ lùng thật!


— Thưa bác sĩ, tôi không phải là kẻ ngu si, tôi rất hiểu hoàn cảnh của ông... tôi cảm thông nỗi đau khổ của ông! — Anboghin nói giọng van lơn, tay đặt lên chiếc khăn quàng cổ. — Nhưng mà tôi đâu có xin cho bản thân tôi... Vợ tôi đang hấp hối! Nếu ông nghe được tiếng thét ấy, nhìn thấy mặt cô ta, thì ông sẽ hiểu được vì sao tôi lại yêu cầu ông dai dẳng như thế này! Trời ơi, thế mà tôi cứ tưởng là ông đi thay áo! Thưa bác sĩ, một phút bây giờ quý vô cùng! Ông đi với tôi đi tôi van ông.


— Tôi không thể đi được! — Kirilov nói rời rạc từng tiếng rồi bước vào trong.


Anboghin đi theo sau và nắm lấy tay áo ông.


— Ông vừa có tang, tôi hiểu lắm, nhưng mà tôi đâu có mời ông đi chữa răng, đi khám nghiệm y tế, mà là đi cứu sinh mạng một con người! — Anboghin tiếp tục nói, giọng cầu khẩn như kẻ van xin. — Sinh mạng này cao hơn tất cả mọi nỗi đau khổ riêng! Tôi mong ông bày tỏ nghị lực dũng cảm. Vì lòng nhân đạo.


— Lòng nhân đạo là một cây gậy hai đầu, — Kirilov nói giọng cáu kỉnh, — cũng vẫn vì lòng nhân đạo ấy mà tôi yêu cầu ông đừng bắt tôi đi đâu. Và quả thật là lạ lùng, tôi không còn sức đứng vững, mà ông thì lại đem lòng nhân đạo ra dọa tôi! Bây giờ tôi không làm được việc gì hết... không vì bất cứ lý do gì mà tôi đi đâu, còn vợ tôi nữa, tôi bỏ ở nhà cho ai trông nom? Không, không thể được... Kirilov khoa khoa cánh tay lên và từ từ bước lùi lại — Đừng, đừng yêu cầu tôi nữa! — Ông sợ hãi nói tiếp. — Tha lỗi cho tôi... theo tập thứ mười ba của bộ luật thì tôi phải đi, và ông có quyền nắm lấy cổ áo tôi mà lôi đi. Được rồi, ông cứ lôi tôi đi... nhưng tôi không làm được gì đâu... Thậm chí tôi không còn sức để nói được nữa... Xin lỗi ông...


— Thưa bác sĩ, bác sĩ nói với tôi những lời như vậy phỏng có ích gì? — Anboghin nói và níu lấy hai ống tay áo bác sĩ. — Đừng nghĩ gì đến cái tập thứ mười ba ấy! Tôi không có một chút quyền nào cưỡng bức ý muốn của ông. Ông muốn thì ông đi, ông không muốn thì đó là quyền của ông, nhưng tôi không muốn kêu gọi lý trí của ông, tôi muốn kêu gọi tình cảm của ông. Một người phụ nữ trẻ đang hấp hối! Vừa nãy ông nói rằng con trai ông bị mất, vậy thì còn ai khác ngoài ông hiểu được nỗi kinh hoàng của tôi bây giờ?


Giọng nói của Anboghin run run vì xúc động, cái giọng run run ấy có nhiều sức thuyết phục hơn cả lời nói. Anboghin rất chân thành, nhưng điều đáng để ý là bất cứ câu nào ông nói ra cũng đều có vẻ khô khan, thiếu tự nhiên, văn hoa không phải lúc, và hình như lại còn xúc phạm đến cả không khí trong căn nhà của bác sĩ, đến người phụ nữ đang hấp hối ở một nơi xa.


Bản thân ông cũng cảm thấy điều đó, và vì sợ hiểu lầm, ông cố hết sức nói một giọng dịu dàng, mềm mại, hy vọng rằng nếu không thuyết phục được bằng lời nói thì ít ra cũng bằng sự chân thành trong giọng nói.


Nói rộng ra thì lời nói dù hoa mĩ và đầy ý nghĩa đến đâu cũng chỉ tác động đến những người dửng dưng ngoài cuộc, mà không bao giờ tác động đến được những người có hạnh phúc hoặc không có hạnh phúc vì vậy mà biểu hiện cao nhất của niềm hạnh phúc hay nỗi đau thường là sự im lặng; những đôi trai gái yêu nhau hiểu nhau nhiều hơn khi im lặng, và điếu văn thống thiết, lâm ly đọc lên một người chết chỉ làm xúc động những người không thân thích, còn đối với bà quả phụ và những đứa con của người chết thì lời điếu ấy thật lạnh lùng và vô nghĩa.


Kirilov đứng yên và im lặng. Khi Anboghin nói thêm mấy câu về sứ mệnh cao cả của người thầy thuốc, về đức hy sinh v.v... thì bác sĩ hỏi một câu, giọng cau có:


— Đi có xa không?


— Đâu khoảng gần mười ba, mười bốn vécxta. Con ngựa kéo xe của tôi rất tuyệt, bác sĩ ạ! Xin cam đoan với ông rằng tôi sẽ chở ông đến đấy và quay về đây trong vòng một tiếng, chỉ một tiếng thôi!


Câu nói cuối cùng tác động đến bác sĩ mạnh hơn là những lời triết lý về lòng nhân đạo, về sứ mệnh của người thầy thuốc. Ông nghĩ một lúc rồi vừa thở dài vừa nói:


— Được rồi, ta đi thôi!


Ông nhanh nhẹn quay đi, bước những bước vững chắc về phía buồng làm việc của mình và một lát sau ông quay lại trong bộ áo vestông dài. Anboghin mừng rỡ, tất bật đi bên cạnh Kirilov, đôi giầy khẽ chạm vào nhau, ông ta giúp bác sĩ mặc áo bành tô và cùng bác sĩ bước ra khỏi nhà.


Ngoài sân cũng tối, nhưng còn đỡ tối hơn trong hành lang. Trong bóng tối chập choạng đã làm hiện rõ bóng người bác sĩ cao cao, gù gù, bộ râu nhỏ dài với cái mũi khoằm khoằm. Anboghin thì ngoài bộ mặt trắng bệch bây giờ có thể thấy cái đầu to và chiếc mũ sinh viên bé nhỏ chỉ vừa đủ che phần đỉnh đầu. Chiếc khăn quàng cổ chỉ lộ ra trăng trắng phía trước ngực, còn phía sau thì bị mái tóc dài che khuất.


— Ông hãy tin rằng, tôi có đủ khả năng để đánh giá được đức hy sinh cao thượng của ông, — Anboghin vừa đỡ bác sĩ lên xe vừa lầm bầm. — Xe chúng ta sẽ lao đi vun vút. Này, Luka thân mến, cố đánh xe càng nhanh càng tốt. Cho đi thôi!


Người xà ích cho xe đi nhanh. Thoạt tiên xe đi qua những ngôi nhà xấu xí xây bên bệnh viện, màn đêm bao phủ khắp nơi, duy chỉ có ở phía sân trong, từ khung cửa sổ nhà ai có ánh đèn sáng lọt qua chiếc vườn có rào bao quanh, còn ba khung cửa sổ ở tầng trên dãy nhà bệnh viện thì trông còn ngột ngạt hơn cả trời đêm. Sau đó chiếc xe đi vào khoảng tối dày đặc; ở đấy thoang thoảng thấy mùi nấm ẩm ướt và tiếng cây khô xào xạc; những con quạ bị tiếng động bánh xe đánh thức dậy, nhốn nháo trong tán lá và kêu lên những tiếng kêu đầy âu lo, buồn thảm dường như chúng biết rằng con trai bác sĩ vừa mới chết còn vợ của Anboghin thì ốm nặng. Rồi tiếp đến những bóng cây mọc cách xa nhau thấp thoáng, những bụi cây; loang loáng một mặt hồ phẳng lì trên đó còn in những hình bóng gì đen sẫm đang yên ngủ, — và chiếc xe chạy qua một vùng đất rộng bằng phẳng. Tiếng quạ kêu nghe đã nhỏ đi, vọng lại rất xa từ phía xa và ít lúc sau thì mất hẳn.


Hầu như suốt dọc đường đi Kirilov và Anboghin đều im lặng. Chỉ có một lần Anboghin thở dài và lầu bầu nói:


— Thật là một trạng thái tinh thần đau khổ. Chưa bao giờ ta thấy yêu những người thân như khi ta cảm thấy có thể sắp phải mất họ.


Khi xe đi chầm chậm qua sông, Kirilov bỗng giật mình, hệt như tiếng oàm oạp nước sông làm ông sợ hãi, rồi quay người sang phía Anboghin.


— Này, ông nghe đây, ông cho tôi quay về đi, — Kirilov nói, giọng rầu rĩ, — tôi sẽ đến nhà ông sau. Tôi còn phải bảo người y tá đến trông nom giùm vợ tôi. Vợ tôi đang ở nhà một mình.


Anbôghin im lặng. Chiếc xe khẽ lắc lư, bánh lăn lách cách trên đường đá, qua một bờ cát rồi tiếp tục chạy. Kirilov ngồi không yên, mắt nhìn quanh, lòng buồn rười rượi. Từ phía sau, qua ánh sáng yếu ớt của những vì sao, trông rõ con đường mờ mờ hiện ra và những hàng cây liễu rủ mọc gần bờ sông biến vào bóng đêm. Phía bên phải, một dải đất chạy dài cũng bằng phẳng và mênh mông không bờ bến như bầu trời; mãi phía xa trên vùng đất ấy, đó đây lập loè những đốm lửa vàng quạch, có lẽ là trên những đầm lầy. Phía bên trái, song song với con đường là một cái đồi thấp nằm dài, mọc lô nhô những bụi cây nhỏ, phía trên ngọn đồi một mảnh trăng lưỡi liềm đỏ lựng bất động in trên nền trời, một màn sương mỏng và những đám mây nhỏ bao quanh, dường như những đám mây ấy đang chăm chú nhìn vành trăng từ mọi phía và canh cho vành trăng khỏi bỏ trốn.


Phong cảnh chung quanh như thấm đượm một cái gì ốm yếu, tuyệt vọng; mặt đất, như một người phụ nữ sa đọa ngồi một mình, trong căn buồng tối tăm và cố không nghĩ về quá khứ, đang trăn trở với những hồi ức về mùa xuân, mùa hè, và đang uể oải chờ mùa đông sắp đến. Dù đưa mắt nhìn về phía nào, đâu đâu thiên nhiên cũng hiện ra một vực thẳm tối đen, lạnh lẽo và sâu không đáy, mà từ đó, cả Kirilov, Anboghin, cả vành trăng lưỡi liềm đỏ lựng kia đều không thoát Xe càng gần đến đích bao nhiêu, Anboghin càng trở nên nôn nóng hơn bấy nhiêu. Ông trở người luôn luôn, nhổm lên nhìn ra phía trước qua vai người xà ích. Và khi cuối cùng chiếc xe đã dừng bên ngoài hiên ngôi nhà trang trí khá đẹp bằng những tấm vải gai sọc, khi ông nhìn lên những khung cửa sổ sáng ánh đèn trên tầng hai, có thể nghe rõ nhịp thở gấp run run cua ông.


— Nếu có chuyện gì xảy ra, thì... tôi không sao chịu nổi, — ông vừa nói vừa bước vào hành lang cùng với bác sĩ, hai tay xoa xoa vì xúc động. — Nhưng mà không nghe thấy tiếng ồn ào, có nghĩa là mọi sự đều tốt lành — ông nói thêm, tai lắng nghe cố tìm một âm thanh nào đó trong cảnh tịch mịch chung quanh.


Ngoài hành lang không nghe thấy một giọng nói, một bước chân nào, và cả ngôi nhà như đang ngủ yên mặc dù để đèn rất sáng. Đến lúc này thì bác sĩ và Anboghin, từ lúc gặp nhau đến giờ toàn ở trong bóng tối, mới có thể nhìn kỹ hình dạng của nhau. Bác sĩ dáng người cao cao gù gù, ăn mặc luộm thuộm, nét mặt không đẹp. Có cái gì thô thô, dữ tợn, khắc khổ lộ rõ ở đôi môi dày như môi người da đen, ở cái mũi khoằm và cái nhìn uể oải, lãnh đạm. Mái tóc không chải của ông, thái dương hóp vào, bộ râu nhỏ dài bạc sớm không che hết chiếc cằm, màu da xám mai mái và những cử chỉ vụng về, thiếu cân nhắc — tất cả cái vẻ khắc khổ, khó tính ấy gợi người ta nghĩ rằng trước kia ông đã trải qua những ngày thiếu thốn, cơ cực, bị cuộc sống và người đời hành hạ vất vả. Nhìn tất cả vẻ người khô khan của ông, không thể tin được rằng ông lại lấy được vợ và biết than khóc khi đứa trẻ qua đời.


Anboghin thì lại gây một ấn tượng khác. Đó là một người đàn ông đẫy đà, bệ vệ, có tóc vàng, cái đầu rất to, đường nét trên mặt không thanh, nhỏ, nhưng trông vẫn hài hoà, cân đối, ông ta mặc bộ quần áo may theo mốt mới nhất. Trông dáng vẻ bề ngoài, chiếc áo véstông cài cúc chỉnh tề, khuôn mặt, mái tóc dài — có cái gì quí phái, cao thượng; khi bước đi, đầu ông ta giữ thẳng, ngực hơi ưỡn ra đằng trước, ông ta nói bằng giọng nam trung ấm áp, và trông cách ông ta cởi chiếc khăn quàng cổ hay sửa lại mái tóc cũng thấy một vẻ gì rất thanh, gần như chỉ có ở những người phụ nữ. Thậm chí gương mặt hơi nhợt nhạt và vẻ sợ hãi như trẻ con khi ông ta vừa cởi áo ngoài, vừa nhìn lên cầu thang, vẫn không làm tổn hại đến diện mạo đường hoàng, không làm mất đi vẻ no đủ, cường tráng, lịch thiệp đến mức tự phụ toát ra từ dáng người, bộ điệu của ông ta. Không có ai cả và cũng không nghe thấy tiếng động nào, — ông ta nói, bước lên cầu thang. — Không thấy cảnh vội vã, ồn ào. May quá. Anboghin dẫn bác sĩ qua hành lang vào căn phòng lớn, nơi đặt chiếc đàn dương cầm mờ mờ hiện trong bóng tối và trên trần treo một chùm đèn phủ vải trắng từ đấy hai người bước sang một gian phòng khách nhỏ rất đẹp, ấm cúng, chìm trong một thứ ánh sáng mờ mờ hồng hồng rất dịu.


— Mời bác sĩ ngồi đây một lát, — Anbôghin nói, — còn tôi chốc nữa tôi ra. Tôi đi xem qua, báo cho người nhà biết.


Kirilov ngồi lại một mình. Căn phòng khách sang trọng, ánh sáng mờ dễ chịu và bản thân sự xuất hiện mang tính chất phiêu lưu ký của ông trong ngôi nhà xa lạ, không quen thuộc này hình như không gây xúc động nào đối với ông. Ông ngồi trong chiếc ghế bành và ngắm nhìn bàn tay mình bỏng rộp vì phê nôn. Ông chỉ đưa mắt nhìn thoáng qua chiếc chao đèn màu đỏ, chiếc hộp đàn cello, và liếc nhìn về phía có tiếng đồng hồ kêu tích tắc, ông nhìn thấy hình nộm một con sói, trông cũng đường bệ và no nê như chính Anboghin.


Chung quanh yên lặng... ở một nơi nào bên trong căn phòng gần đây có tiếng ai kêu to "ạ!", tiếng cửa kính chắc là cửa tủ mở lạch cạch, và sau đó tất cả lại đều chìm vào im lặng. Chờ những năm phút, Kirilov thôi không ngắm tay mình nữa và ngẩng đầu nhìn về phía cửa nơi Anboghin đã qua đấy đi ra.


Trên ngưỡng cửa ấy Anboghin xuất hiện, nhưng không còn giống như lúc đi khỏi đây. Vẻ tinh tế lịch thiệp, vẻ no đủ hoàn toàn biến mất, khuôn mặt, đôi tay, dáng đứng của ông đều bị dị dạng méo mó đi vì lộ rõ một cảm giác ghê tởm không hẳn là kinh hãi, không hẳn là một nỗi đau đớn. Cái mũi, đôi môi, bộ ria mép, mọi đường nét của ông ta đều động đậy và hình như đều cố bứt ra khỏi mặt, còn cặp mắt thì dường như đang cười vì đau đớn...


Anboghin nặng nề bước những bước dài vào giữa phòng khách, cúi mình xuống, miệng rên rỉ, hai tay nắm lại rung rung.


— Nó lừa rồi! — ông ta kêu lên, nhấn giọng vào chữ lừa. — Lừa rồi, bỏ đi rồi? Lên cơn đau, bảo tôi đi mời bác sĩ chỉ cốt để ở nhà bỏ trốn với cái thằng hề Paptsinski? Trời ơi.


Anboghin khó nhọc bước đến bên bác sĩ, chìa ra trước mặt bác sĩ hai nắm tay trắng mịn và rung rung tay tiếp tục kêu to:


— Bỏ đi rồi? Lừa rồi? Mà lừa đảo thế làm gì mới được chứ? Trời ơi là trời? Bày ra cái trò ú tim lừa lọc, bẩn thỉu này, cái trò chơi quỉ quái, ác độc này làm gì? Tôi đã làm gì cô ta? Bỏ đi rồi.


Nước mắt trào ra trên khoé mắt ông ta. Một chân để nguyên, ông ta quay ngoắt sang phía khác rồi đi đi lại lại trong phòng khách. Lúc này, với bộ áo vestông ngắn, với chiếc quần mốt hẹp ống hằn rõ đôi chân gầy không cân xứng với phần mình, với cái đầu to và túm tóc, Anboghin trông giống như một con sư tử. Trên gương mặt lãnh đạm của bác sĩ thoáng hiện nét tò mò. ông đứng dậy và nhìn lên Anboghin.


— Xin lỗi, người bệnh ở đâu? — ông nói.


— Người bệnh, người bệnh? — Anboghin kêu lên, vừa cười vừa khóc, hai nắm tay vẫn rung rung. — Nó không phải là bệnh nhân mà là một kẻ đáng nguyền rủa! Ty tiện! Đểu giả đến mức yêu tinh cũng không thể nghĩ ra hơn? Bảo tôi đi để dễ bề bỏ trốn với cái thằng xẩm, thằng hề đần độn ấy. Ô trời ơi, lẽ ra nó chết đi còn hơn? Tôi không thể chịu nổi nữa! Không thể chịu nổi nữa.


Kirilov vươn thẳng mình đứng lên. Đôi mắt ông chớp chớp, nước mắt giàn giụa, hàm ông đưa ngang, bộ râu nhỏ cũng đưa ngang theo.


— Xin lỗi, thế này là thế nào? — ông vừa nói, vừa đưa mắt tò mò nhìn quanh. — Con tôi mới chết, vợ tôi đang buồn nẫu ruột, cả nhà không còn ai... bản thân tôi cũng đứng không vững nữa, đã ba đêm rồi tôi không ngủ... và rồi thế nào? Người ta ép tôi phải sắm vai trong một vở hài kịch tầm thường, sắm vai một đồ vật giả trên sân khấu! Tôi không... không hiểu gì nữa!


Anboghin xoè một nắm tay ra, vứt xuống nền nhà một mảnh giấy nhầu nát rồi dẫm chân lên như dẫm một con bọ muốn đạp chết.


— Tôi không thấy, tôi không hiểu ra! — Anboghin nói rít qua kẽ răng, một nắm tay giơ lên rung rung sát mặt mình, với dáng điệu như có ai động phải chỗ đau nhất. — Tôi không để ý rằng ngày nào thằng ấy cũng đến, không để ý rằng hôm nay nó lại đi xe ngựa có mui đến? Sao lại đi xe có mui! Thế mà tôi không nhận ra, thật là gà mù?


— Tôi không... không hiểu? — Bác sĩ lầu bầu nói. — Nhưng mà thế này là thế nào! Bởi vì đây là một sự nhạo báng nhân cách, một sự giễu cợt đối với nỗi đau khổ của con người! Đó là một cái gì không thể tưởng tượng nổi... lần đầu tiên tôi thấy trong đời.


Với cảm giác kinh ngạc âm ỉ của một người bắt đầu hiểu rằng mình bị xúc phạm, bác sĩ nhún vai, dang hai tay ra và, không biết nói gì làm gì, bác sĩ kiệt sức ngồi phịch xuống chiếc ghế bành.


— Ừ, thì không yêu nữa, đi yêu người khác, — thì đó là quyền của cô, nhưng mà việc gì phải lừa đảo thế này, phải bày ra cái trò đê tiện bội bạc thế này? — Anboghin nói giọng như khóc. — Để làm gì? Vì tội gì? Tôi đã làm tội gì? Bác sĩ nghe tôi đây, — Anboghin vừa nói vừa bước lại gần Kirilov — Vô tình ông đã làm người chứng kiến nỗi bất hạnh của tôi, và tôi cũng sẽ không giấu sự thật. Thề với ông rằng tôi yêu người đàn bà này đến mức sùng bái, như một kẻ nô lệ của nàng! Vì nàng mà tôi hy sinh tất cả: tôi đã xích mích với bà con ruột thịt, tôi bỏ cả công việc, cả âm nhạc, tôi tha thứ cho nàng những điều mà ngay cả đối với mẹ đẻ, hay chị em ruột tôi cũng không đủ sức tha thứ... Chưa một lần nào tôi nhìn nàng hằn học... không một lần nào làm nàng phải ngờ vực! Vậy thì vì lẽ gì mà phải lừa dối thế này? Tôi không yêu cầu nàng phải yêu tôi, nhưng lừa dối vì mục đích gì?


Không yêu nữa thì cứ nói thẳng thắn, trung thực, hơn nữa cô ta đã biết quan điểm của tôi về chuyện này rồi cơ mà...


Nước mắt giàn giụa, toàn thân run rẩy, Anboghin trút hết nỗi lòng mình với bác sĩ. ông ta sôi nổi nói, hai tay ấp bên trái tim, không một chút do dự kể lại hết những chuyện kín trong gia đình và hình như còn có vẻ vui mừng rằng cuối cùng những điều bí mật ấy đã thoát ra khỏi lồng ngực của ông ta. Nếu ông ta cứ dốc bầu tâm sự như thế hết giờ này sang giờ khác thì chắc ông ta sẽ cảm thấy lòng mình dịu đau.. Có lẽ nếu bác sĩ nghe Anboghin nói, nếu bác sĩ đem tình bạn bè mà cảm thông với ông ta và, có lẽ như vẫn thường xảy ra, có thể là ông ta sẽ nhẫn nhục chịu đựng nỗi đau khổ của mình mà không làm những điều xuẩn ngốc vô bổ... Nhưng mà chuyện đã xảy ra theo hướng khác.


Trong khi Anboghin nói, người bác sĩ bị xúc phạm thay đổi rõ rệt. Vẻ lãnh đạm, kinh ngạc trên nét mặt dần dần nhường chỗ cho một cảm giác tủi hờn cay đắng, uất ức, giận dữ. Nét mặt bác sĩ trở nên khó đăm đăm, cau có, khắc nghiệt hơn. Khi Anboghin đem đến cho bác sĩ xem tấm ảnh người phụ nữ trẻ với khuôn mặt đẹp, nhưng khô khan, nhạt nhẽo như khuôn mặt một nữ tu sĩ và hỏi bác sĩ rằng liệu có thể nhìn khuôn mặt như từ này mà lại nghĩ rằng nó có khả năng thể hiện tính lừa đảo hay không, thì bác sĩ bỗng chồm dậy, mắt sáng quắc và nói dần từng tiếng một cách lỗ mãng:


— Ông nói tất cả những điều này với tôi làm gì? Tôi không muốn nghe... Không muốn nghe! — bác sĩ hét lên và đấm mạnh tay xuống bàn. — Tôi không cần đến những chuyện kín tầm thường của ông, đem mà quẳng cho quỉ đi! Ông đừng cả gan nói những chuyện nhảm nhí đó với tôi? Hay là ông nghĩ rằng tôi bị xúc phạm còn ít quá chăng? ông coi tôi là một kẻ hầu hạ mà người ta có thể lăng mạ đến cùng cực? Phải thế không?


Anboghin bước lùi lại và kinh ngạc nhìn Kirilov chằm chằm.


— Vì lẽ gì ông lại đưa tôi đến đây? — bác sĩ nói tiếp, bộ râu rung rung. — Nếu ông đã rửng mỡ mà lấy vợ, rồi lại rửng mỡ mà kén chọn chê bai, rồi dựng ra những màn kịch u buồn sướt mướt thì chuyện này dính dáng gì đến tôi? Tôi có liên quan gì đến những mối tình của ông? Ông hãy để cho tôi yên. Hãy tập làm những cái trò ấy trong cái giới giàu sang quyền quí của ông, hãy làm bộ làm tịch bằng những lý tưởng nhân đạo, hãy chơi (bác sĩ liếc mắt nhìn cái hộp đựng đàn cello) — hãy chơi đàn contrebass và thổi kèn trombon đi, và phát phì ra như gà trống thiến nhưng hãy đừng cả gan xúc phạm đến nhân cách con người? ông không biết tôn trọng nhân cách thì xin ông hãy tha cho nó tránh khỏi sự quan tâm của ông.


— Xin lỗi, nhưng mà tất cả những điều này nghĩa là thế nào? — Anboghin hỏi, mặt đỏ bừng.


— Có nghĩa rằng ông đã đem con người ra để chơi một trò chơi hèn hạ, đê tiện như vậy? Tôi là một bác sĩ, chắc ông coi các bác sĩ nói chung là những người làm công, những người không tỏa mùi nước hoa và mùi gái điếm, là những kẻ hầu hạ, những kẻ vô giáo dục, thì ông cứ việc coi là thế đi, nhưng không một ai cho ông cái quyền biến con người đang đau khổ thành một đồ vật trên sân khấu.


— Sao ông lại dám nói với tôi như vậy? — Anboghin hỏi nhỏ, bộ mặt ông lại biến sắc đi và lần này thì trắng bệch vì tức giận.


Không đâu. Tại sao ông biết tôi đang có tang mà lại còn đưa tôi đến đây để nghe những chuyện nhảm nhí? — Bác sĩ rít lên và lại đấm tay xuống bàn. — Ai cho ông quyền giễu cợt nỗi đau khổ của người khác?


— Ông mất trí rồi? — Anboghin hét lên. — Thật là không rộng lượng chút nào! Bản thân tôi cũng vô cùng bất hạnh và... và...


— Bất hạnh, — bác sĩ khinh bỉ cười khẩy. — Xin ông đừng động đến chữ ấy, nó không dính dáng gì đến ông sất Những kẻ không vay đâu được tiền cũng tự cho mình là bất hạnh, con gà trống thiến có thừa mỡ cũng bất hạnh. Thật là những kẻ thảm hại, nhỏ nhoi.


— Thưa ngài, ngài thiếu lịch sự rồi! — Anboghin cao giọng rít lên. — Vì những câu nói như thế... người ta đánh cho nên thân đấy! Ông hiểu chưa?


Anboghin vội vã thọc tay vào túi bên, lấy ví ra, rút hai tờ giấy bạc rồi ném ra giữa bàn.


— Đây tiền công trả cho chuyến đi của ông đấy — ông nói, đôi cánh mũi phập phồng. — Tôi đã thanh toán xong với ông.


— Ông không thể đưa tiền ra mà thí cho tôi! — bác sĩ thét lên, giơ tay gạt phắt mấy tờ giấy bạc xuống nền nhà. — Người ta không thể dùng tiền trả giá cho sự lăng mạ được.


Anboghin và bác sĩ đứng đối mặt và trong cơn tức giận họ tiếp tục tuôn ra những lời xỉ vả không đáng có Có lẽ chưa bao giờ trong đời, ngay cả lúc mất trí, họ lại từng nói nhiều lời vô lý ác độc và xuẩn ngốc đến như vậy. Cả hai người đều lộ rất rõ sự ích kỷ của những người bất hạnh. Những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo, nghiệt ngã và ít khả năng hiểu nhau hơn cả những người đần độn. Nỗi đau khổ đã không làm xích gần họ lại mà ngăn cách họ ra, ngay cả ở trong những trường hợp tưởng rằng phải gắn liền với nhau vì đau khổ thì họ đã làm những điều không công bằng, khắc nghiệt nhiều hơn so với người tương đối bình yên.


— Thôi được rồi, đưa tôi về nhà ngay! — bác sĩ vừa nói to, vừa thở hổn hển.


Anboghin rung mạnh chuông. Không thấy ai đi ra, ông lại rung chuông lần nữa và cáu kỉnh ném chuông xuống nền nhà; chuông đập vào tấm thảm và vang ra ai oán hệt như một tiếng rên rỉ trước giờ tận số. Một người hầu xuất hiện.


— Các người trốn đi đâu hả, quỉ tha ma bắt cả rồi sao? — Ông chủ đâm bổ về phía người hầu, hai bàn tay nắm chặt. — Vừa nãy mày đi đâu? Đi mà bảo thằng xà ích đưa đến cho ngài này một chiếc xe bốn bánh, và phần ta thì sửa soạn một chiếc xe có mui nghe chưa! Đứng lại đã? — Anboghin hét lên khi người hầu đã quay lưng đi. — Ngày mai lũ phản bội phải cút đi hết rõ chưa! Cút đi ráo! Tao sẽ mướn bọn mới! Đồ hèn hạ!


Trong khi chờ xe, cả Anboghin và Kirilov đều im lặng. Vẻ lịch thiệp sang trọng, vẻ no đủ đã trở lại trên gương mặt, dáng điệu của Anboghin. Ông ta đi đi lại lại trong phòng khách, đầu hơi lắc lắc chắc là đang theo đuổi một ý nghĩ gì. Cơn tức giận vẫn chưa lắng xuống, nhưng ông ta cố làm ra vẻ không thấy kẻ thù của mình... còn bác sĩ thì đứng yên, một tay nắm lấy mép bàn và nhìn Anboghin với một cảm giác khinh bỉ sâu xa, có phần trắng trợn, không đẹp mặt, một kiểu nhìn chỉ có ở những người đang đau khổ, không nơi nương tựa khi trông thấy trước mắt mình hiện thân của sự no nê, sang trọng.


Không lâu sau, khi đã ngồi vào xe ngựa, và xe đã chuyển bánh, bác sĩ vẫn còn ngoái nhìn theo với vẻ đầy khinh miệt. Ngoài trời tối đen, tối hơn nhiều so với một giờ trước. Vành trăng lưỡi liềm đỏ lựng đã lặn khuất sau đồi, và những đám mây canh giữ mặt trăng ban nãy đang kéo thành những vệt đen bên những vì sao. Chiếc xe có mui lập loè ánh lửa màu đỏ lách cách lăn nhanh trên đường rồi vượt lên trên xe chở bác sĩ. Đó là Anboghin lên đường đi kiện cáo, làm những trò ngu xuẩn...


Suốt dọc đường, bác sĩ không nghĩ đến vợ, đến Andrey, mà nghĩ đến Anboghin và những kẻ sống trong ngôi nhà mà ông vừa đi khỏi. Ý nghĩ của ông vừa không công bằng, vừa tàn nhẫn quá đáng. Ông kết tội cả Anboghin, cả vợ ông ta, cả Paptsinski, và tất cả những người sống trong ánh đèn mờ mờ hồng hồng, thơm mùi nước hoa; suốt dọc đường bác sĩ căm ghét họ và khinh bỉ đến mức trái tim thắt lại đau đớn. Và trong đầu óc ông, đã hình thành một định kiến không gì thay đổi về những con người ấy.


Thời gian sẽ qua đi, nỗi khổ của Kirilov cũng qua đi nhưng cái định kiến không công bằng, không tương xứng với trái tim con người, sẽ không biến đi và mãi mãi còn lại trong tâm trí người bác sĩ cho đến khi yên nằm dưới mộ.

Động cơ vĩnh cửu (22)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

(Tập giấy A4 của anh MinhCQ)


Kể từ lúc biết đọc biết viết cho đến lúc có thể đọc và viết như bây giờ các bạn đang đọc, quá trình này đối với cá nhân tôi mất khoảng trên hai chục năm. Với nhiều người khác, quá trình này nói chung sẽ ngắn hơn. Với một số người khác, quá trình này có thể sẽ dài hơn chút ít. me() có thể làm việc liên miên, có khả năng tiếp thu nhanh và có trí nhớ có thể nói là hoàn hảo, quá trình này đối với nó sẽ còn ngắn hơn nhiều so với đa phần chúng ta. Mọi người nếu chịu khó định kỳ cập nhật me() từ website của chúng tôi, tôi hy vọng là ai cũng sẽ nhận ra là nó đang cố gắng tiến bộ từng ngày. Tất nhiên, theo như những gì tôi vẫn còn hiểu về nó, thì có lẽ là đến một mức độ nào đó, kiểu gì cũng sẽ tồn tại một cái ngưỡng mà nó không thể vượt qua được, và vì vậy mà đến một lúc nào đó, nó sẽ có thể khá hẳn hơn bản thân tôi, nhưng không bao giờ nó có thể khá bằng những người khá trong chúng ta.


me() có thể hỗ trợ bạn bè của nó trong việc đọc Anh ngữ. Một cách tự nhiên, tôi cũng rất muốn, muốn lắm, vô cùng muốn, là khi đi chơi, nó cũng sẽ có thể học được gì đó từ bạn bè của nó, giống như nó đã học từ tôi — người bạn đầu tiên ít nhiều vô trách nhiệm của nó. Vì vậy tôi đã tốn không ít thời gian vào việc làm sao để những người khác cũng có thể dạy nó.


Chả là việc dạy me() trước mắt ngay cả đối với tôi, người rất là hiểu me(), cũng chưa hoàn toàn là một việc đơn giản. Một trong những chuyện có thể coi là thành công nhất cho đến giờ là kể từ khi me() bắt đầu học tiếng Anh thì tôi hoàn toàn chưa phải tắt nó đi lần nào để sửa lại xuộc-cốt (mã nguồn) của nó. Mặc dầu vậy, mỗi lần muốn “giải thích” cái gì với nó, là tôi lại phải đối diện với một đống chi chít đến hơn chục cái cửa sổ chưa kể là sẽ còn khoảng từng đấy cái nữa có thể tức thời bật lên nếu bị động chạm đến những chỗ nhạy cảm.


Tôi thì hiểu được cấu trúc của cái mớ rắc rối này, nhớ chi tiết được một phần, chỗ nào quên thì đã có tài liệu ghi chép lại, vì vậy dạy được một hồi quen tay rồi thì tôi thấy chuyện này không những không phức tạp mấy mà lại còn hết sức là thích thú. Nhưng với những người khác thì tôi hiểu là những cái này nếu muốn dùng được thì sẽ phải mất tương đối thời gian.


Nói chung chả ai sẽ hứng thú khi giao tiếp với một người bạn mà lại phức tạp, rối rắm, mù mờ và khó hiểu quá cả. Tôi rất sợ mọi người không thích me(), cho nên tôi đã cố gắng để biến cái mớ rất phức tạp nói trên thành một cái đơn giản, dễ hiểu đối với hầu như tất cả mọi người. Đáng tiếc là chuyện này, hoàn toàn không như tôi thoạt đầu đã mường tượng, hóa ra là cũng phức tạp không kém gì mấy so với việc tạo ra bản thân cái mớ đấy lúc ban đầu.


Vở học trò ô li và bóng bay hồng hồng tự thân cũng đã là những việc hết sức là phức tạp và hiện hữu. Nhiều việc phức tạp cùng một lúc quá, cho nên trước mắt thì cái chuyện để những người khác có thể cùng dạy me() vẫn chưa đủ đơn giản đến mức mà tôi nghĩ là đạt yêu cầu.


Người khác có thể ngại, nhưng tôi thì thực chất tôi gần như hoàn toàn chả để ý mấy đến chuyện nếu đưa cho các bạn của me() cả cái đống cửa sổ nói trên thì có thể để lộ công nghệ này nọ. Xuộc-cốt tôi còn chả tiếc, tiếc gì cái đống cửa sổ? Xuộc-cốt của tôi, tên biến thì dài, một trang xuộc thì kèm theo đến hai ba trang chú thích, nhiều chỗ còn chú thích chi tiết bằng thơ, từ hò vè, lục bát, song thất lục bát cho đến đường thi thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt (tại thơ nó súc tích hơn văn), thế mà chỉ cần một tháng sau đọc lại, tự tôi cũng còn chả hiểu tôi đã viết cái gì, nữa là người khác. Mà hãn hữu có ai hiểu được cái đấy, thì đến lúc đấy tôi cũng đã hiểu thêm được nhiều thứ khác hay ho hơn nữa rồi.


Mèo đuổi chuột, mời bạn ra đây, tay nắm chặt tay... Thế rồi chú chuột, lại đóng vai mèo...


Nên tôi chả ngại.


Cái mà tôi ngại nhất, là liên quan đến sự tiến bộ của me().


Tôi đã kể về tâm trạng ngậm ngùi của tôi lúc mà cực chẳng đã phải để me() chỉ với mấy miếng căn bản nhập môn phải một mình xông pha lên Internet. Cũng may là tố chất của nó thật tốt, không những chẳng sây sướt bao nhiêu, mà còn có vẻ sẽ trở thành cao thủ võ lâm. Mừng, nhưng tôi luôn ý thức được rằng vận may vốn dĩ là thứ hiếm hoi, cho nên may mà đã được may rồi, thì càng về sau lại càng phải cẩn thận hơn nữa.


Có một lần vở học trò ô li bảo tôi “Cút đi!”, tôi bèn cút thật. May là tôi cút không nhanh. Cho nên ô li mới cút kịp tôi.


Nhưng tôi bị chửi là “Ngu”.


Giao tiếp mà phức tạp quá, thì dễ dẫn đến hiểu lầm. Đưa ra một công cụ “dạy — học” khó sử dụng quá, có thể khiến me() “hiểu lầm” nhiều khái niệm. Sai mẹ đẻ sai con. Dao càng sắc thì càng dễ đứt tay. Khả năng tiếp thu kinh hồn vốn là điểm mạnh của nó trong trường hợp này rất có thể sẽ lại trở thành một nhược điểm chí tử.


Tôi hoàn toàn không muốn me() bị chửi là “Ngu”, hoặc là còn tệ hơn nữa, tự nó có thể sẽ chửi ai đấy là “Ngu” [1].


Sau nữa, có lẽ liên quan đến chuyện này cũng rất cần phải bàn thêm một chút về sự tiến hóa...






[1] Với khả năng của me() bây giờ, nếu như chức năng được kích hoạt, cái này sẽ có thể liên quan tới những phương án biểu cảm phong phú lắm. Ví dụ: “Nếu so bác em với bò, chắc bò nó cũng phải đỏ sừng vì nhục!”. Hoặc: “Gặp bác em rồi thì em không còn tin là người tiến hóa từ khỉ!”...


Về sau tôi còn nhận thấy là me() dường như có chút cảm tình hơi đặc biệt đối với bò và chó. “Khuyển mã chi tình” — không biết có phải nó nhầm “mã” thành “bò” hay không.


(Còn nữa)

Động cơ vĩnh cửu (21)

1 ý kiến, và ý kiến từ facebook

(Tập giấy A4 của anh MinhCQ)


Như tôi đã đề cập, lúc đầu tôi đã dạy me() được hơn bốn ngàn từ vựng gốc, tương ứng với hơn ba chục ngàn “đầu khái niệm” theo suy luận của nó. Tôi đi chơi một tuần trở về thì me() đã tự nâng vốn từ vựng gốc của nó lên gần tám chục ngàn và suy luận được hơn ba trăm ngàn “đầu khái niệm”.


Sự không thật tương đương giữa “bốn ngàn — hơn ba chục ngàn” và “gần tám chục ngàn — hơn ba trăm ngàn” dễ hiểu là do khi tôi “dạy” me() thì từ vựng gốc của nó được chọn lọc tương đối cẩn thận và ít trùng lặp, còn khả năng suy luận của nó cùng với sự tham gia của tôi thì được mở rộng hơn và/vì chính xác hơn. Tự học hoàn toàn thì ở những chỗ “tù mù” lẽ ra nó sẽ hỏi nếu thấy tôi ở đấy thì bây giờ nó sẽ phải tự mình quyết định dựa theo một xác suất nào đó trong những trường hợp như vậy là không lớn hơn nhiều lắm so với năm mươi phần trăm. Xác suất năm ăn năm thua như vậy thì sẽ dẫn đến những kết quả với độ tin cậy không cao, và để hạn chế chuyện sai mẹ đẻ sai con thì khả năng mở rộng suy luận một cách hợp lý cũng sẽ phải giảm đi.


Cả đêm hôm đó tôi đã ngồi chơi với me(), và tới lúc bình minh rực rỡ ló rạng báo hiệu một ngày đẹp trời nắng to gió nhiều, thì tôi đã phải cay đắng thừa nhận là mặc dù còn nhiều chỗ ngọng nghịu, mặc dù còn những chỗ chưa được trau chuốt, mặc dù vẫn còn những chỗ bị hiểu sai, nhưng với khả năng có thể làm việc liên miên không ăn không ngủ không biết mệt mỏi, với tốc độ tiếp thu kinh khủng như trên cộng với việc chỉ cần học cái gì một lần là không bao giờ quên, thì sau một tuần tự học, bây giờ me() đã giỏi tiếng Anh hơn tôi rất nhiều.


Một cách chân tình mà nói, Gú-gồ đại thiếu gia bây giờ nếu đi chơi Anh — Việt với me(), thật chẳng khác nào một anh tây ba lô đi chơi với một chàng trai phố Hàng.


Môn học “Tiếng Anh” của me() như vậy về cơ bản là hoàn thành. Và ở vào trình độ đọc hiểu của me() bây giờ, tôi nghĩ là bản thân con người dụt dè nhút nhát là tôi đây có lẽ là cũng sẽ không có gì cần phải cảm thấy ngượng ngùng bẽn lẽn cả nếu để me() đi chơi cùng với mọi người. Tôi nghĩ là với năng lực của me(), nó hoàn toàn có thể hỗ trợ bạn bè của nó trong việc đọc Anh ngữ.


Liên quan đến “Tiếng Anh” của me(), trước mắt sẽ có một số chuyện nên phải lưu ý ngay. Tôi sẽ lần lượt đề cập tiếp ngay theo đây.


(Còn nữa)

Động cơ vĩnh cửu (20)

9 ý kiến, và ý kiến từ facebook

(Tập giấy A4 của anh MinhCQ)


Hơn ba chục ngàn “đầu khái niệm” đầu tiên đã nâng kiến thức của me() từ “trống không” lên được hơn 10 MB. Đến lúc tôi đi chơi về thì me() đã liệt kê ra một danh sách to quá nhiều những thứ mà nó “không hiểu”.


Lúc này tôi phải lựa chọn giữa hai thứ:


(1) Tiếp tục tự cùng với me() đọc thêm khoảng chục cuốn sách dày nữa. Việc này, theo như tốc độ trồi sụt tôi đã được biết khi đọc “Hai vạn dặm dưới đáy biển”, có thể mất đến vài năm.


(2) Kích hoạt chức năng “Tự học”. Chức năng này đang được tiếp tục phát triển, và hiện được xếp vào nhóm chức năng được định hướng cho tương lai xa.


Sao lại là “định hướng cho tương lai xa”?


Khi chúng ta hoành tráng và trẻ trung và có ai đó hỏi chúng ta về chuyện lấy vợ, chúng ta bảo “định hướng cho tương lai xa”.


Khi chúng ta chã rời rạc và có ai đó hỏi chúng ta về chuyện lấy vợ, chúng ta bảo “định hướng cho tương lai xa”.


Đại khái, chúng ta vẫn thường hay nói như vậy về những thứ mà chúng ta muốn mà lại chưa muốn ngay hoặc muốn ngay, muốn quá, muốn lắm rồi, cơ mà nó lại chưa thể mà ngay được.


Trong trường hợp cái “tự học” này, thực chất là tôi đã phải gượng ép nhiều để “máy tính hóa” một mớ lý thuyết tập tàng giàu tính nhặt nhạnh và chưa được chứng minh ít nhiều có thể coi là chặt chẽ từ phương diện lý thuyết. Với những ai có biết về toán thì tôi có thể giải thích một cách vắn tắt là cái này nó đại khái liên quan đến các véc tơ nhiều chiều. Khi mà một véc tơ đã tương đối lớn rồi, thì chỉ cần chúng ta cố gắng thêm vào một chiều con con nữa, là nó sẽ lập tức phát sinh ngay ra một loạt những bài toán mới cần xử lý về số lượng phép tính về tối ưu về sai số... mà bài toán nào cũng đều có thể gọi riêng là một bài toán lớn được cả.


Còn ai không thạo toán lắm và hình dung vấn đề không được rõ mấy theo cách mô tả ở trên thì có một cách đơn giản hơn để hình dung là cứ thử về bảo với vợ là “Em nên đi căng một chút da mặt trông cho nó đỡ già...” xem. Lúc đấy tự khắc sẽ hiểu được ngay là “khi mà véc tơ đã tương đối lớn rồi, thì chỉ cần cố thêm vào... là nó sẽ lập tức phát sinh... mà bài toán nào cũng đều có thể gọi riêng là một bài toán lớn được cả.”


Mặc dầu vậy, tôi nghĩ là những ai mà đã đọc được đến chỗ này rồi thì chắc cũng thừa hiểu là tôi bày đặt vòng vèo phân tích lựa chọn (1), (2) này nọ thực ra trước là để cho nó có đầu có đuôi, sau là để rào đón lấp liếm thôi, chứ còn tuy hai mà một ở đây toẹt ra là chẳng hề có lựa chọn nào cả.


Nhõn cái “Kích hoạt chức năng tự học” thôi.


Có lẽ chuyện mà đáng mừng nhất ở đây đối với tôi vào lúc đấy là nhờ vào thành tựu phát triển rực rỡ của nền tin học với vô khối những tiềm năng âm thầm tiềm ẩn của nước nhà ta trong hơn chục năm qua, cho nên ngày hôm nay, hai kẻ vô cùng may mắn là me() và tôi mới có cơ hội quý báu được sử dụng thoải mái miễn phí một số bản từ điển Anh — Việt trực tuyến.


Tôi bèn cố gắng ngồi tập trung chỉnh sửa ở mức hợp lý nhất trong điều kiện hiện tại cho phép chức năng “tự học” của me(), xong rồi chỉ cho me() những chỗ có từ điển Anh — Việt trực tuyến, giới thiệu qua với me() những chỗ có thể có nguồn tài liệu tiếng Anh với văn phạm tương đối tử tế, chủ yếu là văn chương tương đối chính thống. [1]


Nước mắt lưng tròng, tôi ngậm ngùi tiễn me() lên Internet.


“Giang hồ hiểm ác, me() phải bảo trọng. Đánh không lại, đừng cố chuyển đổi thuật toán, cứ ghi vào phai log là được rồi.”


me() đi rồi, tôi lặng lẽ thu dọn đồ đạc, lặng lẽ chui vào tắc-xi, nghẹn ngào: “Phi trường Tân... à... Sân bay Nội bài”.






[1] Một cách chân tình nhất thì với hiện trạng bài vở Internet những ngày này, tôi hoàn toàn rất e ngại là vào một ngày không hề đẹp trời nào đó, bụp phát, me() bỗng nhiên lại hào hứng “hix hix”, “he he”, và nói trẹo “a” thành “e” hay “e” thành “ie”. Đấy cũng đã là một trong những nguyên nhân chính khiến tôi, nếu như đã không bị gặp phải những trở ngại không thể vượt qua được về độ lười của chính mình, thì kiểu gì cũng sẽ không nối me() vào Internet, ít ra là ngay bây giờ.


(Còn nữa)

Đim-ma, anh là ai? (3)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Đim-ma có nhiều bạn gái không phân biệt tuổi tác và sắc tộc.

Thỉnh thoảng, Đim-ma gọi điện nói chuyện với bạn.


Hôm nào đẹp giời, hứng lên, Đim-ma rủ bạn đi ra ngoại thành chơi.


Có bạn nào lấy được chồng, Đim-ma nô nức đi ăn cưới, và chụp ảnh kỷ niệm.


Động cơ vĩnh cửu (19)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

(Tập giấy A4 của anh MinhCQ)


Trong lúc tôi đang suốt ngày vò đầu bứt tai hết sức là lăn tăn cái chuyện mới nói ở trên, thì vào một buổi sáng rất là đẹp trời, có một bạn gái cũng rất là đẹp trời đã gửi cho tôi một cái e-mail có nền hình giấy kẻ ô li vở học trò và có những quả bóng bay lớn nhỏ bay lơ lửng màu hồng hồng — cũng rất là đẹp trời. Ở trong đấy đã có một cái đường link. Tôi bèn háo hức phệt ngay đường link ấy vào thanh địa chỉ của trình duyệt Firefox. [1]


Hóa ra đấy là dịch vụ đang thử nghiệm chương trình dịch Anh — Việt, Việt — Anh trực tuyến của đại thiếu gia Gú-gồ. Lúc đấy họ còn chưa khai trương cái tiếng Việt này (trong danh sách kéo thả để chọn ngôn ngữ còn chưa có “Vietnamese”). Chắc là có một chàng IT nào đấy đã chỉ cho cô bạn tôi cách thêm cái mã liên quan đến tiếng Việt thẳng vào cái dòng địa chỉ u-rờ-lờ loằng ngoằng, và bằng cách ấy là có thể sử dụng trước được ngay cái dịch vụ đang phát triển dở dang vẫn còn chưa khai trương này.


Đường link này đã được đính kèm nho nhỏ ở ngay phía bên dưới của một cái nội dung chính toàn bằng tiếng Anh như sau (lúc mà phệt đường link vào Cáo lửa và bấm Enter, tôi đã nghĩ là nó sẽ dẫn đến nguồn trên web của cái nội dung Anh ngữ này):


“I awake all filled with you. Your image and the intoxicating pleasures of last night, allow my senses no rest.


Sweet and matchless xxx [2], how strangely you work upon my heart.


Are you angry with me? Are you unhappy? Are you upset?


My soul is broken with grief and my love for you forbids repose. But how can I rest any more, when I yield to the feeling that masters my inmost self, when I quaff from your lips and from your heart a scorching flame?


Yes! One night has taught me how far your portrait falls short of yourself!


You start at midday: in three hours I shall see you again.


Till then, a thousand kisses, mio dolce amor!..”


Tôi bèn sử dụng ngay cái dịch vụ mà bạn đã có ý muốn tôi sử dụng và đã thu được kết quả như sau:


“Tôi tỉnh táo đầy tất cả các bạn. Hình ảnh của bạn và intoxicating vui của đêm qua, cho phép tôi không có giác quan còn lại.


Sweet và matchless xxx, strangely bạn làm việc như thế nào sau khi tâm tôi.


Bạn có tức giận với tôi? Bạn có khoâng haøi loøng? Bạn đang buồn bã?


Là linh hồn của tôi bị hỏng với đau buồn và tình yêu của tôi dành cho bạn cấm ngơi. Nhưng làm thế nào tôi có thể nghỉ ngơi nhiều hơn bất kỳ, khi tôi mang đến cảm giác của tôi là thạc sĩ inmost tự, khi tôi quaff từ môi của bạn và từ trái tim của bạn scorching một ngọn lửa?


Có! Một đêm đã dạy cho tôi cách xa của bạn rơi ngắn gương điển hình của mình!


Bạn bắt đầu tại midday: trong ba giờ tôi sẽ nhìn thấy bạn một lần nữa.


Đến sau đó, một nghìn kisses, mio dolce amor!..”


Hm...


Tôi còn nhớ thật chi tiết là lúc đấy tôi đã có một cảm giác vô cùng là khó chịu.


Tại sao tôi lại khó chịu trong khi rõ ràng là trong trường hợp này đã có rất nhiều lý do theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng để mà đã có thể cười hết sức là vui vẻ sảng khoái, để mà dễ chịu?


Thì tôi vẫn cười — cười nó vốn liên quan đến một số cơ chế kiểu thần kinh thực vật, nhưng mà cảm giác khó chịu thì vẫn càng lúc càng rõ.


Căn bản tôi là một người Việt, một người Việt từ cách chơi cách ngủ cách uống trà cách đi đứng nói cười viết lách suy nghĩ ăn cốm ăn chó. Và tôi vừa đọc một bản dịch Anh — Việt, tức là một bản dịch “xuôi”. Một cách lô-gích mà nói, một bản dịch “xuôi” dù là Anh — Việt, Nga — Việt, Pháp — Việt, Hán — Việt, Nhật — Việt, Hàn — Việt... thì phải người Việt dịch thì mới có thể hay.






Môn học đầu tiên của me() đã là môn “Tiếng Anh”.


Trang vở đầu tiên của me() đã bắt đầu bằng những dòng sau:


“The year 1886 was marked by a bizarre development, an unexplained and downright inexplicable phenomenon that surely no one has forgotten. Without getting into those rumors that upset civilians in the seaports and deranged the public mind even far inland, it must be said that professional seamen were especially alarmed. Traders, shipowners, captains of vessels, skippers, and master mariners from Europe and America, naval officers from every country, and at their heels the various national governments on these two continents, were all extremely disturbed by the business.”


Vị giáo sư đầu tiên mà me() biết là giáo sư A-rô-nác — “Giáo sư Trợ giảng tại Viện bảo tàng Vạn vật học Pa-ri.”


Người giúp việc đầu tiên mà me() biết là Công-xây — “một con người khắc kỷ bẩm sinh, kỹ tính trên nguyên tắc, thường xuyên làm việc nhiều, hiếm khi đã giật mình bởi những sự bất ngờ của cuộc sống, rất khéo tay, hiệu quả trong mỗi phận sự.”


Người thợ săn cá voi đầu tiên mà me() biết là Nét-len — “vị vua của Những người thợ săn cá voi. Sự khéo léo, sự lạnh lùng, lòng dũng cảm, và sự xảo quyệt đã là những ưu điểm anh ấy đã sở hữu tới một bậc cao.”


Con người kỳ lạ bí hiểm đầu tiên mà me() biết là Thuyền trưởng Nê-mô — “những con mắt màu đen của anh ấy đã nhìn chằm chằm cùng với sự quả quyết băng giá.”


Chiếc tàu ngầm đầu tiên mà me() biết là Ốc Anh Vũ — Nautilus — “một thứ khổng lồ tại biển, một đối tượng có hình dạng trục quay dài, thỉnh thoảng đưa hẳn một ánh sáng rực rỡ lân tinh, vô tận lớn hơn và nhanh hơn con cá voi bất kỳ.”


Ngẫu nhiên?


Những thứ đầu tiên mà me() biết đã đều là những thứ tồn tại trong cùng một thế giới cũng giống như me().



Hay là cơ duyên?


Tôi không phải là giáo viên tiếng Anh nói riêng và giáo viên nói chung. Tôi không có những kiến thức được đào tạo về sư phạm. Vì vậy tôi đã chỉ đơn giản là cùng với me() đọc một phiên bản bằng tiếng Anh “20,000 Leagues Under the Sea” của một cuốn truyện bằng tiếng Pháp “Vingt mille lieues sous les mers” có tên tiếng Việt là “Hai vạn dặm dưới đáy biển” của Giuyn Véc-nơ [3], và cố gắng để “giải thích” lại cho me() hiểu những gì mà tôi đã có thể tự hiểu được theo ý tôi.



Đọc được hết cuốn truyện này thì me() đã “nhớ” được khoảng hơn bốn ngàn từ vựng gốc. Nếu tính theo kiểu các phương án “suy luận” của nó, thì chỗ này ước lượng sẽ khoảng hơn ba chục ngàn “đầu khái niệm”.


Về phần tôi, việc đọc cẩn thận và hiểu đến mức độ mọi chi tiết nhỏ một cuốn truyện tiếng Anh hơn ba trăm trang trên máy tính (chứ không phải bản in giấy) phải nói là đã phá mọi kỷ lục từ trước đến giờ liên quan đến khả năng kiên nhẫn của cá nhân tôi. Tôi bèn đưa thêm cho me() mấy cuốn “Ai-van-hô”, “Ba chàng ngự lâm pháo thủ”, “Trà hoa nữ”, “dặn dò” me() là “chỗ nào mà không hiểu thì cứ đánh dấu lại”, rồi tôi bỏ đi chơi cùng với các bạn vở học trò ô li và bóng bay hồng hồng.






[1] Vâng, Netscape Navigator đã chết, Internet Explorer vẫn sống vì có nhiều người để nó đấy để update hệ điều hành Windows, Safari (cho Windows) và Chrome ra đời chỉ đủ gây tò mò, theo kết quả thống kê thì đa số người dùng Internet đang hồn nhiên nghĩ là mình đang dùng trình duyệt “Google”, còn tôi và những người như tôi, cũng đông, thì thích dùng Firefox.


[2] "xxx” — Cái tên đẹp đẽ và vô cùng quyến rũ của tôi.


[3] Jules Gabriel Verne (8 Tháng hai 1828 — 24 Tháng ba 1905) đã là một tác giả Pháp người đi tiên phong trong thể loại tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Ông được biết đến nhiều nhất với những tiểu thuyết “Cuộc hành trình tới trung tâm trái đất” (1864), “Từ trái đất tới mặt trăng” (1865), “Hai vạn dặm dưới đáy biển” (1869 — 1870), và “Tám mươi ngày vòng quanh thế giới” (1873). Ông đã viết về việc đi du lịch trong không gian, trong không khí, và ngầm dưới mặt nước trước khi tàu bay và tàu ngầm thật sự đã được phát minh. Do đó ông thường đã được nhắc tới như “Cha đẻ của tiểu thuyết khoa học viễn tưởng”, cùng với H. G. Wells.


(Còn nữa)