
Trước khi đặt bút viết chữ đầu tiên, mấy lần cậu sợ sệt đưa mắt nhìn ra cửa ra vào và cửa sổ, liếc nhìn bức ảnh thánh tối sẫm treo giữa hai dãy giá gỗ xếp đầy những bộ khuôn đóng giày, rồi thở dài đứt đoạn.
Cậu đặt tờ giấy lên chiếc ghế băng và quỳ xuống bên ghế. "Ông Kôn-xtan-chin Ma-ka-rứts thân yêu!" - Cậu viết. - "Cháu viết thư cho ông đây. Cháu chúc mừng ông nhân dịp lễ Giáng sinh và chúc ông được Thượng đế ban cho nhiều may mắn. Cháu chẳng còn bố còn mẹ, cháu chỉ còn có một mình ông thôi".
Van-ka đưa mắt nhìn ra cửa sổ tối sẫm thấp thoáng phản chiếu bóng cây nến của cậu, và xúc động tưởng tượng ra người ông của mình, đang làm người gác cổng ban đêm cho nhà chủ Giư-va-rép. Ông cụ nhỏ nhắn, gầy gò, nhưng khôn ngoan, nhanh nhẹn khác thường, tuổi chừng sáu mươi lăm, vẻ mặt lúc nào cũng như đang cười và đôi mắt thì ngà ngà say. Ban ngày cụ ngủ trong bếp của đám người hầu hạ hay tán chuyện tầm phào với mấy bà đầu bếp, đến đêm thì cụ khoác tấm áo lông cừu thô rộng đi vòng quanh trang trại và gõ cái mõ của mình. Cúi đầu đi theo sau cụ là con chó già Ka-xtan-ka và con chó Chạch - gọi như thế là vì con Chạch có bộ lông màu đen và thân hình dài ngoẵng như một chú chồn. Con chó Chạch lúc nào cũng tỏ ra hết sức hiền lành và kính nể mọi người, với người thân hay người lạ nó cũng đều nhìn bằng đôi mắt quấn quít xun xoe, nhưng nó vẫn không được ai tin cậy. Đằng sau cái vẻ hiền lành, lễ phép ấy là một sự tinh ranh tráo trở. Không một con chó nào biết thạo hơn nó cách lẻn ra đằng sau và đớp nhanh vào chân, ăn vụng thức ăn để trong hầm chứa hay bắt trộm gà của dân làng. Người ta đã nhiều lần đánh què hai chân sau, vài lần treo nó lên, tuần nào cũng đả cho nó một trận nhừ tử, nhưng lần nào nó cũng sống lại. Bây giờ chắc ông đang đứng ở cổng, nheo mắt nhìn những khung cửa sổ sáng đỏ của ngôi nhà thờ làng, rồi vừa đập đập đôi ủng dạ vào nhau vừa tán gẫu với đám đầy tớ. Cái mõ ông đeo bên thắt lưng. Ông vỗ vỗ tay, người co ro lại vì lạnh, rồi vừa cười hì hì theo lối cười của người già vừa véo bà hầu phòng, bà đầu bếp. - Này, ngửi tý thuốc hút chứ? - ông cụ vừa nói vừa đưa hộp thuốc của mình cho hai bà đó. Hai bà ngồi ngửi rồi hắt hơi. Ông cụ thích chí không thể tả được, khoái trá cười vang và kêu lên:
- Thuốc này tốt lắm đấy!
Họ cho cả chó ngửi thuốc lá nữa. Con Ka-xtan-ka hắt hơi, ngoay ngoáy đầu rồi giận dỗi bỏ sang một bên. Con Chạch vì nể không hắt hơi mà chỉ ngoáy ngoáy cái đuôi. Thời tiết thì thật là đẹp. Không khí thật êm dịu, trong lành và tươi mát. Màn đêm sâm sẫm tối, nhưng vẫn nhìn rõ cả xóm làng với những mái nhà màu trắng và làn khói nhè nhẹ bay lên, những hàng cây phủ một lớp tuyết trắng và những đống tuyết. Khắp bầu trời chi chít những vì sao vui nhấp nháy, và dòng sông Ngân hiện ra lồ lộ như trước ngày lễ có ai đã rửa sạch và trải lên đầy tuyết trắng... Van-ka thở dài, chấm bút vào lọ mực rồi viết tiếp:

Mồm Van-ka méo xệch, cậu đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc. "Cháu sẽ tán nhỏ thuốc lá cho ông," - cậu viết tiếp, - "có trời chứng giám, nếu có gì thì ông cứ đánh cháu cật lực, còn nếu ông nghĩ là không có việc gì cho cháu làm thì cháu sẽ cố xin đánh giầy cho ông quản gia hay là đi chăn bò thế chỗ thằng Phết-ka. Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ có nước là chết nữa thôi. Cháu đã định chạy trốn về làng, nhưng mà không có giầy, cháu sợ trời rét quá. Còn khi nào cháu lớn lên rồi, cháu sẽ trả ơn ông mà nuôi ông, cháu không cho đứa nào làm nhục ông, khi ông chết, cháu sẽ cầu nguyện cho linh hồn ông được yên nghỉ như cháu đã cầu cho mẹ Pê-la-gây-a. Còn Mát-xcơ-va là thành phố to lắm ông ạ. Mọi nhà đều là của các ông chủ và ngựa cũng rất nhiều, còn cừu thì không có và chó thì càng không dữ đâu. Trẻ con ở đây không đi chơi thăm các nhà để ngâm thơ đạo Ki-tô vào ngày lễ Giáng sinh và không ai cho đứng trên bục cao trong nhà thờ mà hát đâu, có lần cháu thấy ở hiệu tạp hóa trên cửa sổ có treo bán lưỡi câu có liền cả dây, cá gì cũng câu được, tốt lắm, ông ạ, lại còn có một cái lưỡi câu được cá nheo nặng một pút [*] ấy. Cháu còn thấy có những hiệu bán những khẩu súng giống như súng các ông chủ vẫn đeo ấy, đến hàng trăm rúp một khẩu, ông ạ... Ở các hiệu bán thịt đầy thịt gà rừng này, gà lôi này, thịt thỏ này, nhưng bắn được ở đâu thì mấy người bán chẳng nói. Ông thân yêu, bao giờ ông chủ cho dựng cây thông treo những gói quà nhỏ thì ông lấy cho cháu một hạt dẻ màu vàng nhé, ông giấu vào cái rương màu xanh ấy ông cứ xin tiểu thư Ôn-ga I-gơ-na-tiép-na ấy, ông bảo là xin cho cháu."
Van-ka run rẩy thở dài và lại nhìn chăm chăm ra cửa sổ. Cậu nhớ lại lần nào vào rừng lấy cây thông cho nhà chủ, ông đều đi và dắt cậu đi theo. Lúc ấy thật là vui vẻ! Mỗi lần trước khi đẵn cây thông, ông hút một tẩu thuốc, ngửi ngửi thuốc hít rất lâu, và trêu cười cậu bé Van-ka đang bị rét cóng... Những cây thông non phủ một lớp tuyết mỏng đứng yên và chờ xem cây nào bị chặt. Không biết từ đâu ra, một con thỏ chạy vụt qua mấy đống tuyết... Thế nào ông cũng kêu lên:
- Bắt lấy, bắt lấy... bắt lấy? Chà, đồ quỷ cộc đuôi!
Chặt được cây thông rồi ông đem về nhà chủ, và ở đây người ta bắt đầu trang điểm cho nó... Tiểu thư Ôn-ga I-gơ-na-tiép-na mà Van-ka rất mến, là người bận rộn nhiều nhất. Hồi mẹ Pê-la-gây-a của Van-ka còn sống, làm hầu phòng cho bà chủ, Ôn-ga I-gơ-na-tiép-na đã cho Van-ka ăn kẹo và vì không có việc gì làm nên đã dạy cho cậu ta biết đọc, biết viết, đếm đến 100, thậm chí còn giảng dạy điệu Quadrille nữa. Sau khi mẹ Pê-la-gây-a chết đi, người ta cho cậu bé mồ côi Van-ka vào làm ở nhà bếp của những người hầu cùng chỗ ông, rồi từ đấy lại gửi lên Mát-xcơ-va ở với ông thợ giầy A-li-a-khin...
"Ông thân yêu, ông lên đây đi," - Van-ka viết tiếp. - "Cháu xin ông làm ơn làm phúc đem cháu đi khỏi đây. Ông thương lấy cháu mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn no lắm, cháu buồn lắm, không nói được gì, cứ khóc thôi. Hôm vừa rồi, ông chủ lại lấy cái khuôn khâu giầy đập vào đầu cháu, cháu ngã xuống mãi lâu sau mới tỉnh. Đời cháu khổ quá, khổ hơn cả con chó, ông ạ... Cho cháu gửi lời thăm A-lê-na, bác Ê-go chột mắt và bác đánh xe, còn cái phong cầm của cháu ông đừng đưa cho ai nhé. Cháu của ông mãi mãi, Van-ka Giu-kốp, ông thân yêu ông lên đây đón cháu nhé".
Van-ka gấp lá thư làm tư rồi bỏ vào cái phong bì mua một kô-pếch ngày hôm trước... Nghĩ ngợi một lúc rồi cậu lại chấm mực và viết địa chỉ:
Gửi ông ở nhà quê.
Sau đó cậu gãi gãi đầu nghĩ rồi viết thêm: "Ông Kôn-xtan-chin Ma-ka-rứts". Lấy làm thích thú vì không bị ai làm ngăn trở viết thư, cậu chụp mũ lên đầu và không kịp khoác lên mình chiếc áo bành tô, cứ mặc mỗi chiếc áo sơ mi mà chạy ra ngoài phố. Hôm trước khi cậu hỏi, mấy người ngồi bán thịt đã nói với cậu là thư từ thì bỏ vào những hộp thư, rồi từ đấy người ta lấy ra đem đi khắp nước trên những cỗ xe tam mã có chuông rung do mấy gã đánh xe say rượu điều khiển. Van-ka chạy đến chỗ treo hộp thư gần nhất rồi bỏ bức thư quý báu qua khe... Mơ theo những hi vọng ngọt ngào, một giờ sau cậu đã ngủ thiếp đi... Cậu nằm mê thấy cái bếp lò, ông ngồi trên bệ bếp, đôi chân trần buông thõng, và đọc thư cho mấy bà đầu bếp nghe... Con Chạch quẩn quanh bên cạnh và ve vẩy cái đuôi.
A. P. Tchekhov
[*] pút - Đơn vị trọng lượng Nga tương đương 16,3 kilôgam.
Chưa có bạn nào ý kiến ý cò gì cả (không tính facebook).
Giơ tay bi bô phát biểu bằng nick Google, WordPress...
Bi bô bằng nick facebook, Yahoo...