Chuyện lãng mạn nhỏ

CHUYỆN LÃNG MẠN NHỎ

(I-van Bu-nhin)

Bộ đầy đủ cho tủ sách của me(), bản tiếng Việt: http://www.megaupload.com/?d=7J6A82WV

bản song ngữ Việt - Nga: http://www.megaupload.com/?d=D1ZOA9IO

Hướng dẫn sử dụng phòng đọc của me(): http://philong58.blogspot.com/2010/08/lac-giua-am-dieu-hanh.html






I






Chiều hôm ấy chúng tôi gặp nhau ở sân ga.


Nàng đang đứng chờ một người nào đó, vẻ bối rối.


Đoàn tàu đến làm cả nhà ga đông nghẹt người. Có mùi của rừng cây sau cơn mưa, mùi của than đá. Người quen rất nhiều, đến mức phải vất vả lắm chúng tôi mới kịp gật đầu chào nhau. Nhưng người mà nàng luôn đưa mắt lo lắng tìm kiếm đã không có.


Đoàn tàu lại chuyển bánh, và nàng dừng lại, mở to đôi mắt màu xanh nhìn theo những toa tàu đang xình xịch đi qua dọc đường đợi. Trong các cửa sổ, trên các chỗ nối toa — đâu đâu cũng thấy nhiều, rất nhiều những khuôn mặt, ấy thế mà khuôn mặt nàng cần lại không thấy.


Cuối cùng, bức tường các toa tàu chấm dứt, đuôi tàu hiện ra rồi lùi dần, bé dần trên quãng đường giữa hai rừng cây xanh. Trên sân ga vắng vẻ chỉ còn lại những vũng nông nước mưa dài lấp lánh màu xanh lơ của bầu trời.


Đường chở tàu chìm trong bóng râm, vì mặt trời bị che khuất sau mái che đằng sau chúng tôi, nhưng ở phía đối diện, cửa sổ các ngôi nhà nghỉ còn lấp lánh ánh nắng. Ở một nơi nào đó vọng lại tiếng hát khàn khàn, say sưa và kích động, cũng ở một nơi nào đó có tiếng quả cầu cờ-rốc-két đang lăn, tiếng bọn trẻ kêu lên sung sướng... Và không nhìn tôi, nàng nói một cách ngắn gọn: "Ta đi dạo một chốc", và tôi đi.


Ra khỏi sân ga, mặt trời buổi chiều rực rỡ đập vào mắt chói chang, nhưng tiếp đến đã là rừng cây xanh mát. Chúng tôi đi vào rừng theo con đường nhỏ ẩm ướt, dẫm lên đám rễ cây và những lối mòn quanh co đầy lá rụng, hoặc men theo những con đường bẩn, giữa những bụi liễu hoàn diệp và phỉ tử xanh tốt quệt những cành lá mềm và mịn vào người chúng tôi. Nàng đi trước, tôi đi sau ngắm chiếc váy hẹp bó chân nàng mặc, chiếc áo sơ mi kẻ ô vuông và búi tóc to nặng sau gáy. Nàng khéo léo chọn những chỗ khô để đi, khẽ nghiêng mình để khỏi vướng các cành cây.


— Anh đang nghĩ gì thế? — Một lần nàng hỏi, không ngoái đầu nhìn lại.


— Anh đang nghĩ về đôi giày của em, — tôi nói, — về việc nó không có đế kiểu Pháp. Anh không tin những người phụ nữ đi giày đế Pháp.


— Thế anh có tin em không?


— Tin...


Con đường rừng kết thúc, chúng tôi bước ra một khoảng đất trống phủ cỏ xanh ngập nắng. Nàng dừng lại và quay về phía tôi.


— Anh là một người đáng yêu thật đấy! — Nàng nói. — Anh cứ lặng lẽ đi mà không nói gì cả. Không hiểu sao em bỗng cảm thấy rất có cảm tình với anh.


Tôi thận trọng đáp lại:


— Cảm ơn. Khi gặp đau khổ, người ta thường hay như vậy.


Nàng mở to đôi mắt:


— Đau khổ? Đau khổ nào?


— Thì anh đã thấy vừa rồi em chờ ai đấy nhưng không gặp. Anh còn biết rằng ngay bây giờ em sẽ đề nghị anh đuổi theo em.


— Đúng thế. Anh có muốn không?


Tôi bước lại gần, cầm tay nàng khẽ kéo nàng về phía mình, nhưng nàng cưỡng lại.


— Không, — nàng thì thầm. — Không... Hãy vì Chúa...


Thế rồi, im lặng một lúc, nàng khéo léo đưa tay nhấc cao gấu váy và chạy xuống một con mương phía dưới.


Bên phải và bên trái chúng tôi là hai bờ khe có cây mọc thưa thớt, trước mặt là một thung lũng rộng đầy cỏ đã được xén kĩ và hầu như tâấ cả đều ngập chìm trong bóng râm. Chạy xuống con mương, nàng dừng lại ở đường ranh bóng râm ấy, tắm mình trong ánh mặt trời sắp lặn. Bất chợt, lùi khỏi tôi một bước, nàng nhảy qua mương và lao nhanh xuống thung lũng. Tôi chạy theo nàng. Bỗng nhiên, từ trên trời bắt đầu rơi xuống những hạt mưa nhanh, rồi ở mé đồi bên trái xuất hiện một chiếc cầu vồng run rẩy và như đang bốc hơi.


— Mưa! — Nàng kêu lên giọng lanh lảnh, và càng chạy nhanh hơn trên bãi cỏ ướt sáng loáng.


Một nửa bãi cỏ còn được mặt trời chiếu sáng run rẩy và lấp lánh những chấm vàng trong suốt. Những hạt mưa thưa nhưng lớn rơi nhanh và dồn dập. Có thể nhìn thấy những những sợi mưa dài chảy từ những đám mây đen mờ khói treo lơ lửng trên bầu trời cao màu xanh nhạt. Rồi mưa bắt đầu thưa dần, nửa cầu vồng trên đồi biến mất — và đất trời đột ngột trở nên im lặng.


Chạy đến đồng cỏ, nàng ngã xuống đó và phá lên cười. Ngực nàng phập phồng, hồi hộp. Những giọt nước nhỏ còn long lanh trên mái tóc.


— Anh xem tim em đập mạnh không? — nàng nói và cầm lấy tay tôi.


Tôi ôm nàng và cúi xuống đôi môi nàng hé mở.


Sau đó nàng lặng lẽ đẩy tôi ra và ngoảnh khuôn mặt vẻ giận dỗi của mình đi nới khác. Nàng nhay nhay cọng cỏ khô, đôi mắt sáng lơ đãng nhìn một nơi xa xăm nào đó.


— Đây là lần đầu, và cũng là lần cuối, — nàng nói. — Được không anh?


— Được, — tôi đáp.


Nàng chăm chú nhìn tôi.


— Anh có yêu em không, dù một chút thôi? Bên anh, em thích lắm, em rất hạnh phúc! Anh đừng ghen em với ai nhé. Quả là vừa rồi, em có chờ một người, nhưng điều ấy hoàn toàn không liên quan gì đến anh... Vâng, người ấy là chồng chưa cưới chính thức của em, và chẳng bao lâu nữa em sẽ trở thành nữ bá tước El-Ma-mun-na. Vì sao? Em không biết. Chỉ biết là em rất sợ ông ta...


Nàng chìa tay ra cho tôi để tôi đỡ nàng đứng dậy. Tôi cúi hôn tay nàng, lúc đầu tay này, sau tay kia.


— Còn bây giờ ta đi, — nàng nói.


— Đi đâu?


— Dạo thêm chút nữa quanh bãi cỏ.


Tôi đỡ nàng dậy — nàng khẽ mỉm cười vẻ xấu hổ. Sau đấy, bằng những động tác rất mềm mại của phụ nữ, nàng sửa lại mái tóc và hít sâu không khí trong lành của cây cỏ...


Trong rừng có tiếng chim cu kêu, lúc chỗ này, lúc chỗ khác, càng làm tăng thêm sự sâu lắng của cảnh vật xung quanh; cao trên bầu trời là những đám mây ấm với những đường viền đỏ vàng xung quang đang chầm chậm bơi và tan dần nới chân trời.


Trên đường trở lại, chúng tôi bị lạc. Tuy nhiên nàng đã nhanh chóng định hướng lại và mạnh dạn dẫn tôi đi.


Chiều theo ý tôi, vừa đi nàng vừa kể cho tôi nghe câu chuyện của đời nàng bằng một giọng hồi hộp, ngắn gọn và đầy ám chỉ. Kể xong, nàng lặng lẽ bước đi hồi lâu không nói năng gì.


Trong rừng đang là hoàng hôn, thứ hoàng hôn của phương Bắc. Khu rừng xẫm tối, lặng lẽ, kéo dài đến mấy dặm khắp bốn xung quanh, lúc này đang chờ đêm đến, một sự chờ đợi đượm buồn và yên tĩnh. Ánh sáng nhờ nhờ đang tan dần, thiếp ngủ. Chiếc hồ nông sục bùn mà chúng tôi đang men theo, nhợt trắng giữa các hàng cây. Cả nó cũng đượm buồn và mờ ảo như mọi vật khác trong rừng. Những đám mây đen kéo tới, hoà vào màu đen của cây cối. Làn không khí ấm, ngái ngủ đã bắt đầu trở nên giá lạng thoang thỏng mùi của cỏ đầm lầy và cây lá nhọn. Để rút ngắn đường đi, chúng tôi bỏ hồ rẽ đi theo một hành lang các cây thông đại thụ. Khi chúng tôi đi trên cát để đến một bãi trống mà lúc này phải vất vả lắm mới nhận rõ đường, bất chợt có một cái gì đó động đậy trong đám lá khô bên cạnh, rồi từ đó bay ra một con cú mèo lớn. Nó lao về phía chúng tôi, — tôi còn nhìn rõ cả lớp lông màu xám hai bên chân nó — và đập đôi cánh rộng bay vòng quanh chúng tôi. Nàng hoảng sợ bước lùi lại một bước rồi đứng im. Còn con cú vẫn lặng lẽ bay thành một vòng tròn rồi lao đi thẳng, biến mất trong bóng tối của cây rừng và màn đêm.


— Đây là điềm không may, — vừa lắc đầu, nàng vừa nói.


Tôi mỉm cười.


— Không, xin anh cứ tin em, đây là điềm không may, — nàng nhắc lại một cách giản dị nhưng cương quyết.


— Thì điều gì sẽ xảy ra?


— Ôi, em chẳng biết. Mà không sao, với em thì thế nào cũng được. Những giờ phút được ở bên anh, em sẽ không bao giờ quên. Nào, để em hôn từ biệt anh. .


Chưa dứt lời, nàng ôm tôi, buồn rầu và âu yếm nhìn vào mắt tôi, dừng lại mấy giây rồi hôn tôi, một lần, hai lần.


Sau đó chúng tôi đi tắt qua bãi cỏ, về phía có ánh đèn tín hiệu màu xanh đang nhấp nháy sau rặng cây. Trời đã tối hẳn. Cơn mưa lại khẽ thì thầm với rừng cây. Khi chúng tôi lên tới ban công có vải che của ngôi nhà nghỉ, ngồi xuống bên bàn uống trà được chiếu sáng bằng những ngọn nến có chụp, thì mưa đã lớn, nghe như dội nước. Vừa lắc đầu rũ những giọt mưa đọng trên tóc, chúng tôi vừa vờ vui vẻ kể lại việc chúng tôi bị lạc và tìm đường về như thế nào.


Nhưng bỗng nhiên tất cả chợt im lặng: từ góc tối của ban công, nơi có chiếc ghế xích đu, xuất hiện một người cao quá cỡ, gầy, vai rộng, độ ba mươi tuổi, với chiếc đầu trọc, bộ râu đen tuyệt đẹp và đôi mắt sáng. Những người già tỏ vẻ bối rối, còn mặt nàng trở nên tái nhợt. Cầm bàn tay to lớn của anh ta, tôi nói đùa:


— Trời ơi, ông cao quá! Trông ông cứ như một hiệp sĩ khổng lồ thời trung cổ ấy!


— Thế à? — Ông ta vui vẻ hỏi lại. — Có thể là như vậy. Tôi là bá tước Ma-mun-na...


Người ta tìm hộ cho tôi chiếc ô cũ rộng, khuyên tôi nên chọn đường nào để trở về nhà, và tôi bước xuống theo chiếc cầu thang ẩm ướt rồi đi vào bóng tối dày đặc.


Nàng đứng ở ngưỡng cửa, dưới cái dù che ba cạnh màu sáng. Khi tôi ra đến cổng, nàng hạ giọng nói:


— Vĩnh biệt.


Đó là câu cuối cùng tôi nghe được từ nàng.






II






"Anh thân yêu," — nàng viết cho tôi bốn tháng sau ngày đó, — "anh đừng kết tội em, rằng em đã biến đi mà không báo cho anh. Hắn mạnh hơn em gấp ngàn lần. Em đã tỏ ra hèn yếu, bỏ lỡ mất giây phút khủng khiếp khi còn kịp quyết định phá bỏ tất cả. Bây giờ thì em hầu như đã chẳng còn bất cứ hy vọng nào gặp lại được anh. Mà thử hỏi làm sao chúng ta có thể gặp nhau được? Em có cảm giác rằng em hoàn toàn, hoàn toàn không tự lừa dối mình về tình cảm của anh đối với em. Đối với anh, đó chỉ là một cuộc gặp ngẫu nhiên, một chuyện tình nho nhỏ, không hơn. Nhưng không sao: xin thề với anh, rằng nếu trong đời em đã yêu ai đấy, thì người đó chính là anh...


"Tình yêu là gì, cái tình yêu đã được ca ngợi hàng vạn, hàng triệu lần ấy? Cũng có thể vấn đề không phải ở chính bản thân tình yêu. Trong thư của một nhà văn đã chết, cách đây không lâu em có đọc được câu này "Tình yêu là cái ta muốn nhưng không đạt được, và không hề có" Vâng, vâng, không bao giờ có thể có. Nhưng có hề gì. Em đã yêu và hiện đang yêu anh...


"Thường vào những buổi hoàng hôn, em hay nhớ về anh nhất. Chúng ta đã chia tay nhau lúc hoàng hôn, và giờ đây cũng đang là hoàng hôn khi em ngồi viết cho anh, bức thư đầu tiên và có lẽ cuối cùng của em. Thật có trời mới biết đây là đâu — núi An-pơ, một khách sạn lạnh như băng và hoàn toàn vắng người, treo lơ lửng trong mây bay vào một buổi chiều tháng Chạp. Hắn bắt đầu bị bệnh lao dày vò, và em đã cười nhạo sự đau khổ của hắn mà không cảm thấy xấu hổ. Em không chỉ giữ hắn ở An-pơ trong những ngày thời tiết xấu nhất, mà còn lôi hắn đi đi lên núi, dạo quanh hồ cả những hôm trời mây mù lạnh lẽo. Bây giờ hắn hoàn toàn quy phục em.


"Suốt ngày hắn chỉ im lặng, long lanh đôi mắt, nhưng nhẫn nhục chịu đựng. Lúc này hắn cũng đang lặng lẽ đi đi lại lại. Em và hắn đến khách sạn này, cô hầu gái vốn từ trước tới nay sống giản dị cuộc đời cô gái nông dân trong bếp, đã phải kêu lên vì kinh ngạc — có thể một phần vì hắn nhợt nhạt và to lớn như chính bản thân thần chết.


"Còn em thì đến đây chỉ vì anh, để được yên tĩnh suy nghĩ và nhớ lại những ngày hạnh phúc một cách vô vọng bên anh...


"Chao, đẹp sao cảnh thung lũng mờ xanh đang lặng lẽ nối đuôi nhau kéo đến tận chân núi vào những ngày cuối thu này. Bầu trời hờ hững sà thấp xuống sát mặt hồ, còn mặt hồ thì nằm yên bất động,có màu chì xám, giữa những ngọn núi thấp. Mỗi khi nhìn lên bầu trời đầy mây ấy, bao giờ em cũng muốn bỏ trốn vào sương mù của nó mà ngủ qua đêm ở một khách sạn miền núi vắng vẻ nào đó. Em sẵn sàng hy sinh một nửa cuộc đời mình để anh được ở bên em lúc này...


"Em và hắn rời thành phố vào buổi sáng bằng tàu thủy, và sau bữa ăn, đã đi dạo trong núi. Con đường mới buồn làm sao. Những bụi cây thấp, lưa thưa mọc bên bờ khe và sườn đồi như ngái ngủ, thỉnh thoảng lại để rơi những chiếc lá nhỏ màu vàng. Chốc chốc từ các đám lá ló ra chiếc mõm ngạc nhiên, đần độn của những con bò màu đỏ sẫm to lớn. Thỉnh thoảng vang lên tiếng huýt lanh lảnh của các cậu bé đang nhặt củi. Trong sự im lặng tuyệt đối, em và hắn cứ đi lên cao, cao mãi, còn từ các đỉnh núi, các sườn dốc có thông mọc xanh thẫm, mùa đông bốc hơi màu xám đang trườn xuống. Mỗi lúc dừng lại để nghỉ, em ngắm nhìn hồi lâu những thung lũng ngả màu tím nhạt ở mãi tít phía dưới. Những lúc ấy có thể nghe rõ tiếng rơi của từng chiếc lá. Những bụi cây đẫm ướt, lặng lẽ, lặng lẽ khóc...


"Ở cạnh một đường hầm có cửa hầm màu đen hiện rõ trong sương mù, em và hắn gặp một khu làng nhỏ có năm sáu ngôi nhà tồi tàn cheo leo trên sườn núi. Phải rất cẩn thận và từ từ mới có thể đi lên cao theo những bậc thang bẩn và trơn. Chẳng bao lâu, cả khu làng ấy chỉ còn lại là một chấm nhỏ phía dưới, và từ trên đỉnh núi đã thoang thoảng phả xuống mùi lạnh của tuyết mùa thu.


"Đến đây hắn bảo em quay lại.


"Để trêu tức hắn, em cương quyết từ chối.


"— Không thông minh một tý nào, — hắn nói và suy nghĩ một lúc, rồi lại cặm cụi đi tiếp.


"Sương mù mỗi lúc một dày thêm, nhưng bất chấp nó em và hắn vẫn đi tiếp, bỏ qua cái miệng đen xịt và hun hút gió của đường hầm, đi hết chiếc cầu gần như thẳng đứng bắc qua khe núi sâu hút bốc khói... nếu người bạn đường bất đắc dĩ của em bị tụt lại, lập tức hắn sẽ bị tan ngay trong sương mù. Khi em và hắn gọi nhau để khỏi lạc, tiếng gọi nghe đùng đục và có vẻ thật lạ lùng.


"Một lần hắn gọi em — hắn bao giờ cũng đi sau — khi em dừng lại, hắn lại gần rồi chìa tay cho em.


"— Cô hãy tỏ ra dịu dàng với tôi một tý, — hắn rụt rè nói. — Nhờ cô cho tay vào ống áo, kéo chiếc áo len hộ tôi.


"Em cảm thấy thương hại hắn. Hắn nhận ra điều đó, cúi đầu, nói thêm:


"— Vả lại, ta nên đi nơi khác ấm hơn, và cả hai sẽ làm một việc gì đó. Chứ thế này thì không chịu nổi, không phải tuần trăng mật nữa, mà là địa ngục.


"— Chúng ta cần ly dị, — em đáp.


"Hắn im lặng rồi khẽ nhíu mày, nói:


"— Điều ấy hơi khó...


"— Đã vậy, tôi sẽ nhận lấy cái công việc ấy. — Em nói. — Ông không có quyền biến tôi thành vật hy sinh cho tình yêu mù quáng của ông.


"— Tôi có quyền làm tất cả, — Hắn nói, nhìn không chớp vào em. — Tôi chẳng có gì để mất.


"Em quay người và bỏ đi.


"Những đường ray ẩm ướt và được phủ một lớp tuyết đang tan kéo dài từ trên cao xuống còn những cây thông và vân sam thì lại kéo từ phía dưới lên theo các bờ khe. Giữa cành hoàng hôn và sương mù này, dễ cảm thấy hơn là nhận ra những chấm màu tím nhạt của chúng. Và treo trên tất cả những ngọn núi ảm đạm ấy là sự yên tĩnh nặng nề của bầu trời đầy mây, khắp nơi không có dấu hiệu của sự sống, dù nhỏ nhất. Bỗng nhiên từ một bụi vân sam già mọc bên đường có tiếng động nhẹ. Anh còn nhớ về con cú mèo dạo nọ chứ? Ở đây, em đã nhớ tới nó, và rồi quyết định thế nào cũng phải viết thư cho anh. Nhưng lần này không phải là cú mèo, mà là một con tải cúc — có lẽ đó là loại chim bé nhất trong tất cả các loài chim có ở trên đời này. Nó, con chim sâu nhỏ màu xám ấy, khua động một cành vân sam ẩm ướt, định đậu xuống đường, nhưng rồi lại nhẹ nhàng bay về phía vực bên trái và biến mất trong sương mù...


"Anh thử hình dung xem buổi chiều hôm nay như thế nào? Cây cao đứng thành một bức tường xẫm tối, lớp tuyết ướt nhợt nhạt dọc đường đi, những khe núi bốc hơi đang chìm trong một màn sương mù dày đặc, ảm đạm... Nhưng con tải cúc kia thì vẫn bình thản trước tất cả — nó không hề sợ cái rét của mùa đông miền núi. Nó sẽ sống qua mùa đông ở bất cứ nơi nào, nhờ sự che chở của một đấng nào đấy từ trên cao. Thế nhưng em lại chẳng có được niềm tin vào một sự che chở như thế.


"Bây giờ em sẽ nằm ngủ trong căn phòng trống trải, lạnh lẽo, thoang thoảng mùi nhựa thông của khách sạn này, và khi tắt đèn, em nghĩ đến việc em đã ở bên kia những đám mây của vương quốc thần chết. Còn hắn thì nằm ở phòng bên kia và đang ho khù khụ. Hắn không phải là người mà là một cỗ xe tang kì dị nào đó. Em căm ghét hắn đến tận xương tủy.


"Nếu có ngày chúng ta gặp lại nhau và em tự do, em sẽ cúi hôn tay anh vì sung sướng, và lúc ấy với em anh có thể làm bất kỳ điều gì anh muốn. Còn nếu không thì phải đành chịu vậy..."






III






Thế mà có trời biết sau bao lâu bức thư này mới đến được tay tôi. Từ Mát-xcơ-va, người ta gửi nó đến quê tôi. Ở đây nó nằm lăn lóc đâu đó gần ba tháng rồi mới lên đường đi về phía nam. Và tôi chỉ nhận được nó vào đầu tháng ba, ngay trước khi rời Cờ-rưm.


Bức thư đã làm tôi rất xúc động.


Nhưng biết trả lời thế nào, biết làm gì bây giờ? Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều đó, nhưng cuối cùng, lạy Chúa, chỉ nghĩ ra được một điều như thế này: "Được, ta sẽ đi, sẽ vượt núi bằng xe ngựa!"


Ở vùng núi Cờ-rưm cũng có sương mù, nhưng lúc ấy là mùa xuân và tôi mới hai mươi tám tuổi...


Ở Li-ai-liu, trong một quán trọ bẩn thỉu trên lưng đèo, tôi đã uống rượu vang đỏ chua loét trong khi chờ người ta sửa soạn một cỗ xe tam mã. Mọi vật đang chìm trong lớp sương mù chầm chậm bay theo gió ngang qua cửa sổ quán trọ. Tôi lấy bức thư của nàng đọc lại lần nữa, và cảm thấy trái tim nhói đau trong lồng ngực.


"Ôi, em yêu, em tuyệt diệu. Biết làm gì bây giờ, làm gì?"


Ngồi không yên, tôi bước ra ngoài quán trọ.


Sương mù đang tan, ngả sang màu hồng. Bầu trời sáng dần, ấm lên và có một cái gì dịu dàng, tốt đẹp đã bắt đầu xuất hiện trong màn khói của những đám mây đục, và cái đó cứ lớn dần, lớn dần rồi bất chợt biến thành một khoảng trời xanh lơ tuyệt đẹp.


Cần phải trả lời — nhất định thế!


Nhưng viết gì, gởi đi đâu?


...Có gió thổi từ phương Bắc tới, nhưng dịu dàng, nhè nhẹ, và ngây ngất vì ngọn gió ấy, tôi đi đến bờ vực để một lần nữa được nhìn thấy biển. Từ người tôi, một chiếc bóng mờ mờ khổng lồ đổ xuống mặt nước đang bốc hơi dày đặc dưới vực...


Chiếc chuông nhỏ vẫn rung rung đều đều, đơn điệu như muốn nói rằng đang đi sẽ còn dài, rằng quá khứ đã vĩnh viễn trôi qua, và phía trước là một cuộc đời mới đang chờ đợi. Chiếc xe tam mã cũ kĩ, ông lão đáng xe người Tắc-ta có đôi vai rộng ngồi trên chiếc ghế cao với những hòm xiểng được buộc dây cẩn thận, tiếng móng ngựa gõ xuống đất đều đều trong tiếng kêu không dứt của chiếc chuông nhỏ, con đường kéo dài gần như vô tận. Hồi lâu tôi ngoái lại nhìn những đỉnh núi đá màu xám đang in rõ trên nền trời cô đơn màu xanh thẫm... Trong khi đó, chiếc xe tam mã của tôi, cùng với tiếng chân ngựa, tiếng chuông, vẫn lăn, lăn xuống mãi, càng ngày càng ngập sâu vào những thung lũng mọc đầy cây tuyệt đẹp, càng ngày càng đi xa, xa hơn chiếc đèo đang hiện rõ dần và vươn nhanh lên trời cao.


Ở đây, ở vùng núi hoang vắng này, là một sự yên tĩnh trong suốt của những ngày đầu xuân, là vẻ đẹp của bầu trời trong sáng, xanh nhạt, của những thân cây xạm đen trọ trụi, những chiếc lá màu nâu sót lại từ năm ngoái rơi, nằm trong bụi rậm, của những bông hoa tím đầu mùa, những bông uất kim hương dại.


Ở đây, những sườn núi vừa mới bắt đầu xanh trở lại còn thấm mệt vì cái lạnh mùa đông và vì tuyết. Ở đây, không khí thật dễ chịu và trong suốt như pha lê, như chỉ vào dịp đầu xuân không khí mới có thể trong suốt và dễ chịu như thế...


Và khi ấy tôi có cảm giác rằng trong đời, tôi không cần gì hơn ngoài mùa xuân ấy và những suy nghĩ về hạnh phúc.


Vào cuối tháng ba, lúc đã ở làng quê, tận miền Bắc, tôi bất ngờ nhận được một bức điện từ Giơ-ne-vơ gửi tới bằng đường bưu điện, qua Mát-xcơ-va.


"Theo yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo để ông biết, rằng nàng đã qua đời ngày 17 tháng Ba này — El. Ma-mun-na".



1909-1926

Mới có mỗi một bạn phát biểu (không tính facebook),

Yêu tiếng Nga bi bô...

В этот вечер мы встретились на станции.
Она кого-то ждала и была рассеянна.
Поезд пришел и затопил платформу народом.

Vào buổi chiều ấy chúng tôi đã gặp nhau ở nhà ga.
Nàng chờ ai đó và có vẻ lơ đãng.
Tàu đến và nhấn chìm sân ga bằng đám đông.


Cám ơn PL&T, đọc song ngữ mới thấy văn dịch rất tùy tiện:

"Chiều hôm ấy chúng tôi gặp nhau ở sân ga.
Nàng đang đứng chờ một người nào đó, vẻ bối rối.
Đoàn tàu đến làm cả nhà ga đông nghẹt người."

Giơ tay bi bô phát biểu bằng nick Google, WordPress...

Bi bô bằng nick facebook, Yahoo...