— Kệ nó, gái điếm đấy anh. — Tôi đang định quay kính xuống, thì anh lái xe bảo tôi. Anh lái xe tuổi đứng hơn tôi, chắc đã khoảng hơn ba mươi, có lẽ hơi nhăn nheo so với tuổi, hình như mồ hôi dầu vì mặt bóng lên trong ánh đèn đường lấp loáng; anh có một ít ria mép thưa, trông anh lành lành, tử tế; chắc anh cũng thấy tôi "tử tế".
Nếu là lúc khác, thế nào tôi cũng sẽ hỏi thêm anh về chuyện "gái điếm" đấy; tôi đang nghĩ đến chuyện hỏi này thật, nhưng cũng lại cảm thấy ngay là hoàn toàn không có một chút hứng thú nào; thêm cả chuyện "mất hứng" này, thì tôi vẫn không hình dung rõ được, nhưng đã phần nào ước lượng được mức độ nhốn nháo trong tâm trạng của mình.
Anh Trung Anh bảo "Ở bển ngủ không ngon!".
"Bển", tức là bên Thụy Điển, — anh đã bắt đầu quen với từ vựng địa phương.
Nên anh về nhà.
Nhưng nhà ở Hà Nội, ở nhà việc thở với một lá phổi từng bị "ốm" nặng, đúng như các bác sĩ Liên Xô đã cảnh báo, đã có nhiều lúc rất là căng thẳng, nên anh vào đây; ơn giời, ở đây anh thở tốt, nhưng bối cảnh như vậy, đúng như anh đã vừa cười vừa diễn đạt: "Chung thân!"
Anh Trung Anh giữ ảnh vợ ở trong ví, và lấy ra cho tôi xem; vợ anh người An Giang, trông không giống Dung; anh chị hiện ở nhà thuê, và chưa tính chuyện sinh con, — không hiểu hai chuyện này có nhất thiết phải liên quan với nhau không nữa? Vợ anh Trung Anh mở hiệu cho thuê băng vi-đi-ô ở nhà; anh Trung Anh quản trị mấy chiếc máy tính — "mảng IT" — ở một công ty tư nhân nhỏ, tối đi hát (theo xkê-đun) ở quán, và phụ trách "mảng kỹ thuật" cho cửa hàng thuê băng của vợ.
Không biết người khác nhìn thấy tôi thế nào, còn tôi, khi nhìn những người thích đàn hát kiểu như anh Trung Anh, chẳng hiểu có phải một phần là do định kiến hay không, nhưng tôi luôn nhận thấy ở họ có những nét, ít nhiều giống như ngơ ngác, một kiểu ngơ ngác rất dễ mến.
Tôi vẫn thấy anh Trung Anh ngơ ngác, còn ngơ ngác hơn ngày xưa, nhưng lại không hẳn là cái ngơ ngác mà tôi đã biết; còn khác gì, và sao lại khác, thì tôi không nhìn ra.
— Anh cho em xuống đây được rồi. — Tôi bảo anh tắc-xi; mới đến đầu phố, nhưng tôi muốn đi bộ.
Xác định là "về tạm", nên tôi ít giao du, — không biết có phải một phần vì thế không, nhưng trong hình dung của tôi vào lúc này, cuộc sống đang có một vẻ nham nham nhở nhở và vô cùng láo nháo. Dường như nó, theo một cách cố tình nào đó, đang muốn đặt vào ý nghĩ của tôi nhận thức về một sự vô nghĩa; nếu là thế thật, thì cách này phải rất tinh vi, vì cảm nhận thì rất rõ ràng, nhưng sự vô nghĩa thì lại quá khó để có thể mường tượng. Nếu coi khả năng để suy nghĩ của tôi giống như không khí để thở, thì hiện tôi đang ngạt thở ghê gớm! Nên tôi hết sức khó chịu, bực bội, và bứt rứt, — cái này không hẳn giống như một cơn giận, nhưng nó cũng hoàn toàn có đủ khả năng để khiến một người đập, ném, đạp, gây đổ vỡ những gì ở trong tầm tay, chân.
Hồi trước, hồi thế kỷ mười lăm, Xê-xi-li-a, — người đàn bà được sủng ái của quận công thành Mi-lan, — là một phụ nữ thượng lưu có học thức, biết tiếng la-tinh, am hiểu nghệ thuật, thi ca, và quan tâm đến triết học. Nàng có một nhóm bạn hữu, — những người như vậy; — gặp nhau, họ thường trao đổi về những tác phẩm văn học Hy-lạp, La-mã, đọc thơ, thưởng thức âm nhạc... Trong một lần đấy, danh họa Lê-ô-nác-đô Đa Vin-tri đã bắt được một khoảnh khắc đẹp, lúc nàng Xê-xi-li-a đang ngồi ôm một con chồn con màu trắng, và chăm chú nghe một bản nhạc thất huyền cầm — do một nhạc công nổi tiếng mới sáng tác, và chơi, ở nhà nàng, — và nhà danh họa đã vẽ nên bức chân dung "Người đàn bà với con chồn", — bức này lưu danh.
Còn Mô-na Li-da là một người đàn bà chỉ đơn giản là có chồng và bố đều giàu sụ, và nàng sống cuộc sống không phải lo nghĩ nhưng nhạt nhẽo; với những hình thức giải trí: váy áo, tóc tai, móng tay chân, đàn đúm, tào lao đôi mách; ăn, ngủ, và ngáp. Nhưng Lê-ô-nác-đô Đa Vin-tri đã vẽ nàng rất lâu, và trong suốt thời gian vẽ, nàng phải hàng ngày đến xưởng vẽ — một chỗ gần giống như phòng thí nghiệm: cùng với giá vẽ còn có chai, lọ, bình thủy tinh, hình vẽ giải phẫu, tiêu bản động thực vật... — của ông; ở đấy ông thuê bọn hề, bọn nhào lộn đến làm trò cho nàng xem, thuê nhạc công đến chơi đàn cho nàng nghe; và ông trò chuyện với nàng, kể nàng nghe, nói với nàng chuyện này, chuyện khác. Và bức họa "Mô-na Li-za" không chỉ lưu danh, mà đã trở thành một trong những đỉnh cao tót vời trong cả lịch sử hội họa nói riêng, và lịch sử nghệ thuật nói chung, của loài người.
"Lê-ô-nác-đô Đa Vin-tri đã nói gì với Mô-na Li-da?"
Có lần Xéc-giô bạn tôi — trong một bối cảnh nhuốm màu nghệ thuật do A-nhi-a, A-li-ô-sa, và chủ yếu là tôi, dấy lên — đã chợt cảm thấy mình là một người sâu sắc, nên đã đi đi lại lại trong phòng, vò tóc đầy gàu, và bức xúc thành tiếng, tự vấn ở tầm vĩ mô, như vậy.
Kốt-xchi-a, lúc ấy đang ngồi đọc sách ở bàn, bèn ngẩng lên nhìn bạn bằng cái nhìn độ lượng, thong thả sửa lại gọng kính trắng trên sống mũi, rồi rành rẽ giải thích:
— Còn nói gì nữa? Toàn bộ sự bí ẩn mê hoặc lòng người, trong nụ cười của nàng Mô-na Li-da, là ở chỗ... Lê-ô-nác-đô Đa Vin-tri là một bậc đồng tính luyến ái, và ông đã tìm thấy ở Mô-na Li-da nét đẹp tuyệt vời của một người đàn ông.
Tôi từng bảo với Kốt-xchi-a, mấy đứa chúng tôi là cùng một thứ người; không biết chúng nó có đang gặp phải những sự vướng víu khó hình dung ở trong tâm trí, đến mức gây khó chịu, như tôi lúc này hay không? Trong cả bọn, Kốt-xchi-a sâu sắc hơn, A-li-ô-sa vững vàng hơn, còn Xéc-giô thì thân thuộc gắn bó trực tiếp với cuộc sống hơn; không biết có đứa nào, từ góc độ của mình, đã nhìn thấy được cái gì đó tường minh và thật sự có một giá trị nhận thức, trong cái đống "cuộc sống" láo nháo, với rất nhiều thứ không hiểu tại sao lại diễn ra như thế, mà chúng nó — chắc cũng như tôi — đang gặp phải, hay không?
Nếu tất cả lắng xuống, có phải sẽ dễ nhìn hơn?
Nhưng tôi đã được học về những quá trình, mà một khi đã được bắt đầu, thì cách duy nhất để "lắng xuống" là chạy cho đến hết. Tất cả, đương nhiên không thể nào lắng xuống được.
Nếu tự mình lắng xuống, có phải sẽ dễ nhìn hơn?
Những người như ông Giác Ni — tôi muốn gọi ông là ông, nhưng lại vẫn thích gọi bằng pháp danh — có phải là đã chọn cách như vậy?
"...bây giờ ông chỉ cảm thấy trong lòng cực kỳ buồn bã... và tất cả dừng lại ở đó." — Tôi vẫn còn nhớ như in nét mệt mỏi trong giọng nói của ông khi đó.
Vậy là sao?
Nếu đúng là thế thật, thì cái đấy là chung cho mọi người, hay mỗi người lại sẽ khác so với những người khác?
Lô-gích, thì phải khác.
"Cái lưới" dữ liệu trong cái chương trình máy tính đang chạy ở thư viện trường tôi, tôi đã nghĩ ra nó trong một lúc cực kỳ chán đời vì yêu và thiếu vắng A-nhi-a, — nó được sinh ra với một xuất phát điểm buồn.
Hay như Ô-ten-lô chẳng hạn, trong một lúc quẫn trí vì ghen tuông, thậm chí đã tự nhủ: "Người đàn bà này hẳn phải có một trí não kỳ dị và những thị hiếu hư hỏng, nên mới chọn một anh chàng da đen như ta!" — Nếu để Ô-ten-lô làm ra bất kỳ cái gì lúc ấy, thì khả năng rất lớn, là giao diện của nó sẽ có màu rất đen.
Con người chắc cũng thế thôi. Mỗi người xuất hiện ở đây, ở trên đời này, là từ một xuất phát điểm riêng, nói chung sẽ không giống với những người khác; nhưng tất cả đều như nhau ở những nét tổng thể nào đó, — cho nên mới cùng là người.
Người đã biết xây nhà cao tầng, có những nhà cao tầng được dùng làm trụ sở công ty, tôi đang vào trụ sở công ty và về "nhà" tôi bằng hầm, — một đơn vị kiến trúc trong một tổng thể lủng củng "hầm, trệt, lửng, bốn lầu, sân thượng, — đúc bảy tấm" theo cách diễn đạt của Mai Phương, chủ ý giới thiệu từ vựng địa phương với tôi, nhưng tôi chỉ nhớ như một con vẹt, mà chưa bao giờ có hình dung cụ thể về nghĩa của từ cả.
"Nhà" tôi ở trên sân thượng.
Lúc tôi hỏi về căn phòng để không ở trên sân thượng, cô Lan xua tay:
— Trên đấy phơi nắng suốt cả ngày, làm sao mà cháu ở được?
— Tối cháu mới lên ngủ, có cái quạt máy là được mà.
Nhưng lúc tôi dọn về "nhà" mới, thì ở đấy đã mắc điều hòa nhiệt độ; nhưng tôi gần như chẳng dùng, — ở trên đấy lộng gió, và luôn đầy ánh trăng những lúc trời có trăng, tôi cứ mở toang hết cửa ra mà ngủ.
Tôi hay đi qua tầng hầm, rồi về "nhà" bằng cầu thang bộ.
Tầng hầm rộng và tối, ở góc xa bên trong, về phía bên phải, có bóng đèn vàng yêu yếu, và mấy chiếc xe máy, — có những người đang đi công tác, đại để là theo kiểu đột xuất. Bác Thành bảo vệ đang ngáy đều đều trong màn, ở ngay cạnh cửa ra vào. Tôi móc bao thuốc lá ba số — nó vẫn đậm đậm trong tay — định để lại cho bác; nhưng nhìn trước nhìn sau, thì chẳng biết phải để nó vào đâu, — không thấy chiếc ghế nhựa màu thiên thanh có tựa mà mọi khi bác Thành vẫn để ở đầu giường, làm bàn ngủ, đâu — nên tôi lại đút lại nó vào túi.
Đang đi lên đoạn cầu thang chắc khoảng thứ ba, hay là thứ tư, tôi bỗng ngửi thấy một mùi rất quen... nói thế sẽ không thật chính xác, đúng, thì phải nói là một mùi mà tôi rất nhớ: mùi thuốc lá Malboro đỏ.
Và lập tức, mặc dù hoàn toàn đang ý thức được, ý thức rõ, là chẳng có bất kỳ một lý do nào cả, nhưng tôi vẫn chạy hai bậc một, và càng lúc càng nhanh, về "nhà", — tôi thật sự đang rất muốn có mặt ngay ở đó. Chỉ đến những bậc thang cuối, tôi mới tự thấy hơi buồn cười về mong muốn hoàn toàn thiếu lô-gích này của mình.
Nhưng lý do để vội về "nhà" hóa ra lại có thật, chỉ là tôi không biết: đúng là có người đang đợi tôi.
Đang đứng chênh vênh ở mép sân thượng, có thể là nhìn trời, nhìn trăng, có thể là nhìn đường phố ở sâu bên dưới, anh Ngạn gần như quay lại ngay, cùng lúc tôi mở cánh cửa ra sân thượng, và chẳng chào hỏi, nói năng gì, cứ cắm cúi đi thẳng về phía tôi.
— Đi với anh. — Vẫn không ngẩng lên, anh nói khi đi ngang qua tôi, vừa nói vừa đưa cánh tay phải chênh chếch ra sau lưng, búng mẩu thuốc lá hút dở bay vù xuống nền gạch.
Tôi dốt đường; tôi đã nghĩ ngợi về chuyện này và suy luận là tư duy của tôi về các cấu trúc vật lý vĩ mô có vẻ không được tốt lắm. Tôi ở trong ngôi nhà trụ sở này như vậy là cũng tương đối lâu, nhưng ngoài sân thượng và phòng làm việc ra, đại khái tôi cũng chả có hình dung thêm gì về nó cả. Cho nên tôi đã có một cảm giác lạ lùng khi anh Ngạn lẳng lặng dẫn tôi đi theo một hành lang dài được chiếu sáng yếu và thưa thớt — từ lúc anh Ngạn bật công tắc trên tường, — ở ngay tầng dưới (dưới sân thượng, tức là tầng trên cùng của ngôi nhà).
Anh Ngạn dừng lại ở cuối hành lang, trước một cánh cửa sắt cùng màu và bằng phẳng với mặt tường, ở bên trái, — ánh sáng yếu, nhưng tường ở đây có vẻ cũng cùng một màu be với tường ở phòng làm việc, nhưng những cánh cửa ở dưới kia là cửa gỗ dán, phẳng, màu véc-ni nhạt.
Cánh cửa sắt này có đến ba ổ khóa, — phân bố đều, dọc theo mép cửa bên trái, cái tay nắm cửa nằm ở gần phía dưới ổ khóa ở giữa, — và theo những âm thanh đĩnh đạc vang lên trong khung cảnh tôi tối và vắng, lúc anh Ngạn rút chùm chìa khóa lần lượt mở từng ổ, thì chúng đều là loại khóa "đáng kính" cả.
Cánh cửa này dày và có vẻ nặng, nhưng mở ra — mở ra phía ngoài — rất êm. Bên trong tối om, và vẫn tiếp tục tối mờ mờ khi anh Ngạn đã bật đèn, nhưng tôi lập tức bị ấn tượng ngay với những gì mình nhìn thấy trong điều kiện chiếu sáng không tốt — đối với một người mới đến đây — ấy.
Căn phòng nhỏ và hơi dài, nên mặt tường đối diện với cửa ra vào không rộng... mà thực ra đấy không phải là một mặt tường, vì mặt tường theo nghĩa từ vựng thì chắc không phải là một mặt được lát bằng các màn hình ti-vi.
Những màn hình to bằng nhau, cỡ khoảng mười bốn inh, có khi còn nhỏ hơn (nếu như có loại nhỏ thế), khung đen bóng; theo cách dàn hàng dọc ngang kín kẽ và đều tăm tắp và những gì mà thị giác của tôi có thể nhận thấy được ở khu vực nút bấm phía dưới mỗi màn hình, — nhất là những chữ số to, màu trắng, mà dù tôi chưa nhận ra một quy luật thứ tự nào, nhưng vẫn giống như để đánh số thứ tự, — thì chắc đây không phải là những màn hình ti-vi dân dụng.
Sát chân bức tường "màn hình" là một chiếc bàn — chắc sẽ được gọi là bàn điều khiển — rộng; trên mặt tường bên trái bàn điều khiển có treo chênh chếch một chiếc ti-vi to; có những thiết bị có lẽ là thiết bị hình tiếng, nhưng trông khác nhau, rắc rối và đều hầm hố, xếp chồng lên nhau và dàn hàng ngang ở trên mặt bàn bên dưới ti-vi; trên bàn còn có một chiếc máy tính, và mấy chiếc bảng sẫm màu — chắc là xám — viền trắng, trông như đã được gắn cố định vào mặt bàn, trên mỗi bảng đều đầy những nút bấm, chủ yếu là vuông, và có nhiều màu sắc.
Có vẻ phức tạp hơn tất cả những thứ phức tạp nhất mà tôi từng biết, — có hai thứ như vậy: hầm máy tính, và cái mích-xơ ở nhà văn hóa, đều ở trường tôi.
Anh Ngạn đẩy cho tôi một chiếc ghế ở gần bàn, — loại ghế văn phòng thông thường, là ghế xoay, màu xám, chân năm ngón gắn bánh xe, — rồi lại phía dưới cái màn hình to, đưa tay phải nhặt một cái băng vi-đi-ô để ở trên đống thiết bị nghe nhìn, tay kia bấm nhanh mấy cái nút ở mặt ngoài đống đấy, — theo cách bấm, là đã quen tay, — đút cái băng vào, và với tay bật ti-vi.
Màn hình đầy những đốm nhiễu trắng kêu xẹt xẹt, loáng loáng vài vệt vằn cheo chéo, nhoáng qua mấy màu sắc quang phổ... tôi nhìn nó chăm chú, vì tò mò; nhưng khi khuôn hình đầu tiên hiện lên một cách chỉn chu, thì tôi nghệt ra.
Có mà gõ vào đầu tôi, cũng chẳng thể nào mà lại nẩy được ra ý nghĩ là cả khu vực làm việc của tôi ở phòng làm việc dưới kia đều lọt vào trường quan sát của một cái máy quay phim.
Nhưng tôi không nhìn thấy tôi.
Có ngày tháng ở góc màn hình... phải rồi... bất giác tôi thấy mình thở phào, và cùng lúc lại có một cảm giác rất khó chịu về chuyện thở phào này, — lúc đó tôi đang ở Cà Mau.
Còn thời gian, là gần năm giờ chiều.
Anh Ngạn — cũng đã ngồi xuống chiếc ghế xoay ở cạnh bàn, và hướng vào màn hình ti-vi — hơi nhoai người về phía trước, lăn chiếc ghế lại gần, thò tay bấm nút, khuôn hình hơi uốn éo, hình ảnh hấp tấp, và phát ra những tiếng chít chít...
Anh Nghạn bỏ tay ra thì số người ở trong khuôn hình đã vơi đi quá nửa; lặp lại như thế một lần nữa thì mọi người đã về hết.
Chỉ còn lại một người.
Người này nhổm người lên một chút, hơi ngả qua một bên, dướn cổ ngó về hướng cửa chính một lát; quay trái, rồi quay phải, ngoái nhìn khắp xung quanh một lượt; rồi tắt máy tính, và — chắc phần vì vội, phần vì không yên tâm, nên các động tác trông tương đối thiếu tự nhiên — bưng cái màn hình trên thân máy xuống, rồi vặn vít, gỡ vỏ máy tính để xuống đất.
Hơi kiễng người lên, lại lặp lại dãy động tác quan sát tương tự như ban nãy xong, dáng vẻ đã tự nhiên hơn, người ấy bước nhanh qua chỗ bàn làm việc của tôi.
Máy tính tôi đang dùng cũng là máy Compaq, loại thân nằm, nhưng tôi không để màn hình lên trên thân máy, nên không cần phải bưng màn hình xuống, vả lại dòng máy này ốc vít được thiết kế để có thể tháo lắp hoàn toàn bằng tay, ngay cả ổ cứng cũng có thể cắm rút bằng tay, hoàn toàn không cần tuốc-nơ-vít, còn người thì đã bình tĩnh hơn, nên lần này mọi chuyện diễn ra một cách tương đối "thoải mái".
Người ấy gỡ ổ cứng ở máy tôi, cắm qua máy mình, chăm chú — chắc là — sao chép gì đó, rồi — lại vội vàng — lắp lại mọi thứ, không quên nghiêng ngó bàn làm việc của tôi một lượt, chắc để yên tâm là mọi thứ đều đã như cũ...
Khung hình dừng lại, — anh Ngạn đã với tay ra, bấm nút, rồi xoay hẳn ghế lại, nhìn tôi chăm chú:
— Em biết chuyện này không? Ý anh là, biết đâu... đã có trao đổi trước... trước khi em đi.
— Không, — tôi lắc đầu, — không nói trước. Nhưng em có biết.
— ...
— Đi về, em bật máy, thì không bút được... Lúc cắm ổ này sang máy khác để cóp dữ liệu thì phải cắm lại một cái giăm ở trên ổ đĩa, — tôi cầm ngón cái và ngón trỏ tay phải vào nhau, làm động tác rút ra, cắm vào, — đến lúc lắp lại vào máy em, thì lại phải giăm lại, nếu không thì máy không nhận được ổ cứng có hệ điều hành...
— Tóm lại... là tự ý mở máy?
— Thì... vâng. Nhưng chuyện này... bình thường thôi anh. Có khi cần vài phai hệ thống o-ri-din để sửa lỗi hệ điều hành, hoặc cần một trình ứng dụng thông dụng nào đấy, ai cũng hay để vài bộ cài kiểu như thế vào một thư mục riêng trên ổ cứng của mình, nhiều chương trình còn không cần cài, cứ cóp nguyên xi là chạy... À... vâng, nếu lớn hơn dung lượng đĩa mềm...
— Tóm lại... không cần đuô... có cần phải xử lý... về nhân sự không?
Cô gái ở trong băng vi-đi-ô tên là Tú.
Do tính chất công việc tôi định làm, tôi với Mai Phương có một chỗ làm việc riêng ở đây, — một "phòng thí nghiệm" nhỏ. Nhưng — cũng do tính chất công việc đó — tôi vẫn cần một chỗ làm việc ở khu vực chung kia. Tôi đến, thì Tú đã ở đấy rồi, nhưng tuổi cô kém tôi. Cô không phải người miền Bắc, không phải người miền Nam, có lẽ cũng không phải người sống ở thành phố, thị xã, thị trấn; cô hay nói to, nói nhiều, và luôn nói ngay vào hầu như tất cả mọi chuyện đang được nói ở trong tầm tai. Ở một chỗ văn phòng mở, một người như thế rất dễ nhận ra, nhưng sẽ khó có cảm tình.
Một cảm giác ái ngại tương đối lủng củng, làm tôi thấy rất không thoải mái; vừa cười vừa nhăn mũi, tôi bảo anh Ngạn:
— Về chuyện ổ cứng, thì em nghĩ là không.
(Còn nữa)
Truyện "Lập Trình Viên II" (Phần II — Chương 2):
Truyện "Lập Trình Viên II" (Phần II — Chương 1):
Truyện "LẬP TRÌNH VIÊN" (Phần I — Đầy đủ):