Nhất thời chưa thể hình dung chuyện gì thực sự đang xảy ra, còn đang hồ đồ, thì tôi thấy bốn bề có nhiều người đang chạy vượt lên, nhiều trong số họ đều cầm vật gì đó nho nhỏ trên tay.
Nhà Trắng và khách sạn — hình như là — năm sao U-krai-in-na, một trong bảy tòa "Đỉnh cao Xta-lin" (cùng một loạt với tòa nhà Đại học Tổng hợp Lô-mô-nô-xốp) kỳ vĩ của Thủ đô, nằm ngắm nhau qua dòng sông Mát-xcơ-va. Cứ theo ngoại hình cũng như thuộc tính chức năng mà ví von thì khách sạn giống gái, còn Nhà Trắng giống giai hơn; có điều ở đây cô gái thì lại ngắm nhìn chàng trai một cách thẳng thắn trực diện, còn chàng trai thì lại nhìn cô gái bằng kiểu nhìn xeo xéo qua phải, và chiếc xe tăng mà tôi đang nói nằm lấn vào tầm nhìn đó, cho nên lúc tôi tới gần — trong lúc đó đã có những người khác nữa vội vàng leo thêm lên xe tăng, giờ đến hơn chục người cả thảy, ở gần giữa nhóm này có một người giơ hai tay trương lên một lá cờ ba vệt màu trắng, xanh da trời, đỏ — thì chiếc tăng và nhóm người đứng ở trên đó đang tạo nên một cận cảnh rất đẹp trên nền hậu cảnh là khách sạn U-krai-in-na cao vút trong khung trời.
Nhưng chỉ có hai người đứng quay về phía tôi, vẻ như đang canh chừng, còn lại họ đều đứng quay mặt ra bờ sông, cho nên tôi vội vàng chen ngay về phía ấy.
Tôi len được đến gần sát xe tăng, thì bác đứng ở giữa trên đấy — chính là người mặc bộ com-lê màu tro tím, đã cúi xuống bắt tay chú bộ đội — đang thò tay phải vào túi ngực bên trong áo vét, rồi móc ra một tờ giấy gập tư nữa (tay trái bác cũng đang cầm một tờ, không gập). Nhìn ngay gần thì bác này tuổi đã cao, tóc bạc nhưng khá tốt, lại rẽ ngôi từ bên phải, khung người thuộc loại cao to, nhưng tương đối béo, mặt mũi bác hơi nhăn nhó, cà-vạt bác đeo đồng tông nhưng sẫm hơn màu áo vét, và có điểm những vảy hình lá màu trắng; đứng kề ngay bên trái bác, là một bác khác, trẻ hơn, chỉ trạc ngoài bốn mươi, thấp hơn, có phần béo và tròn trĩnh hơn, diện bộ com lê màu ghi sáng, cà vạt xanh cô-ban, mắt nheo nheo, tay trái cầm cái khăn mùi xoa, lau mấy phát lên vầng trán hói, rồi đút vào túi áo vét bên trái.
Những vật nhỏ mọi người cầm trên tay vừa nãy, giờ đang được tới tấp giơ lên xung quanh tôi, hóa ra đấy là những thiết bị khác nhau nhưng đều có chức năng thu âm, — tôi đang lọt giữa một bầy phóng viên.
Phải thôi: bác tóc bạc, com-lê tro tím, đang chập hai tờ giấy vào nhau, cầm bằng cả hai tay và đưa ra trước mặt, không ai khác, chính là Tổng Thống nước tôi — ông Ba-rít Nhi-ka-lai-ê-vích En-txin.
Tổng Thống En-txin, thì những người com-lê cà-vạt kiểu như bác hói cà vạt xanh cô-ban đang vây quanh ông hẳn là những người "nghiệp vụ" rồi, nhưng tôi vẫn có một cảm nhận hớ hênh rất rõ ràng và đầy lo âu... nói toẹt, thì tâm lý tôi đang chờ một chuyện mà nếu tôi là một nhân vật của "phía bên kia", thì kiểu gì cũng sẽ phải xảy ra: Một phát bắn tỉa!
Có đám "nghiệp vụ" vây quanh, nhưng từ phương diện chuyên môn của xạ thủ bắn tỉa chuyên nghiệp — mà tôi nghiên cứu được trong tương đối nhiều phim tôi đã xem — mà nói, thì Tổng Thống, vào thời điểm này, mà lại tơ hơ ra thế kia...
— Vì họ không cho dùng truyền hình, không cho dùng phát thanh, nên tôi sẽ tuyên đọc. — Lời nói của Tổng Thống đã cắt ngang ý nghĩ của tôi.
"Gửi các công dân nước Nga.
"Vào đêm 18 rạng ngày 19 tháng Tám năm 1991 Tổng Thống của quốc gia, người đã được bầu theo luật pháp, đã bị phế bỏ quyền lực. Cho dù việc phế bỏ này có được biện minh bằng những lý do nào đi nữa, chúng ta cũng đang phải đối mặt với hành động đảo chính trái với hiến pháp, và phản động, của cánh hữu...
"...
"Liên quan đến những hành động của một nhóm người, tự xưng là Ủy ban Quốc gia về Tình trạng đặc biệt, tôi quyết định:
"Coi tuyên bố của Ủy ban này là trái với hiến pháp và xem hành động của những người tổ chức ra nó là đảo chính, không gì khác hơn, là một hành động tội phạm chính trị.
"Mọi quyết định, được công nhận nhân danh cái gọi là Ủy ban về Tình trạng đặc biệt, bị coi là bất hợp pháp và không có hiệu lực trên lãnh thổ Cộng hòa Liên bang Nga...
"Hành động của các nhà chức trách, thực hiện các quyết định của Ủy ban nói trên, sẽ bị xét xử theo Bộ luật Hình sự của Cộng hòa Liên bang Nga, và sẽ bị truy tố theo pháp luật.
"Sắc lệnh này có tác dụng kể từ thời điểm ký."
Ông En-txin này quả là lợi hại!
Và rất may mắn nữa, — đã không có phát bắn tỉa nào.
Và cái "Sắc lệnh" mà hiện tôi cũng chưa hình dung ra là nó sẽ làm thế nào để có thể "có tác dụng kể từ thời điểm ký" này được mọi người chia nhau — và được ném từng xấp từ các cửa sổ và ban công tầng trên Nhà Trắng xuống — để phân phát. Lọt được vào bên trong cái chiến lũy "hạng gà" của anh Nhi-ka-lai, tôi cũng làm một tệp mỏng và vừa đi vừa phát cho những người tôi gặp trên lộ trình đến chỗ điểm danh, — không thấy anh chị nào của tôi gần xe tăng, tôi đang nóng lòng muốn kể cho họ nghe, nhất là chuyện tôi đã ở ngay đấy, thậm chí có thể sờ được vào ông En-txin, — và trong số những người tôi gặp, có những người vội vã xua tay lia lịa không nhận "truyền đơn", thậm chí còn quay hẳn mặt qua một bên và tránh người để không chạm vào tôi; trong lúc ngoái cổ nhìn theo một người hơi lạ lùng như thế, tôi trông thấy anh A-li-ô-sa tôi.
Tòa Nhà Trắng, nếu theo kiểu xếp hình lê-gô thì có thể tách làm hai khối chính. Nếu bay trên trời mà nhìn thẳng xuống, thì khối thứ nhất sẽ giống như một chữ "D", nhưng viết vuông các góc ở lưng, và chĩa hẳn hai cái càng ra một đoạn khoảng thêm một nửa chiều rộng, — hai cái càng này hướng một cách cân xứng vào dòng sông; — khối này cao sáu tầng tính từ chỗ tôi đang đứng, tức là bảy tầng tính từ mặt đất. Khối thứ hai giống như một cái bình in-nốc đựng rượu bẹt và phẳng (bình rượu kiểu này thường có bề mặt hơi cong cong), — loại mi-ni bỏ túi, tính cả nút (cắm thêm lên nút một lá cờ), — rộng vừa bằng, và được cắm áp sát bề mặt vào nét sổ của chữ "D", từ phía trong; khối này cao thêm mười một tầng tính từ nóc khối kia (đoạn bị che lấp trong lòng chữ "D" được phân tầng thế nào thì tôi không biết).
Cả chữ "D" lại nằm gọn trong một mảnh sân rộng gần như vuông, — thừa ra ngoài chữ này thêm một khoảng rộng cỡ hai xe tránh nhau, phía trước đi lên sân bằng những bậc thang qua chiến lũy của anh Nhi-ka-lai, phía sau lên bằng hai lối đi thoai thoải từ hai bên mép góc nhà, — mưa đã tạnh nhưng nắng chả có và trên phần sân rộng trước mặt Nhà Trắng mọi thứ trông đều rất ướt át, đến nỗi số lượng người đông đảo và láo nháo bất thường hôm nay dường như cũng không thể khiến cho quang cảnh bớt được đi phần nào vẻ ảm đạm. Sân phẳng đều, nhưng nếu hình dung là từ cái chiến lũy của anh Nhi-ka-lai có một lối đi thẳng vào cửa Nhà Trắng (giữa nét sổ của chữ "D"), thì đối xứng hai bên lối đi này, giãn cách đều và nằm trong phần diện tích bị bao vây bởi hai càng chữ "D", có hai cái ao nhân tạo hình vuông có bờ viền thấp bằng đá nâu tương đối rộng có thể ngồi lên được, trong ao hình như bố trí đài phun nước. Có một dãy ô-tô con xếp nối đuôi, không thật thẳng tắp lắm nhưng gần như sát sàn sạt, chắn ngang hết khoảng trống giữa hai cái ao, — nối liền hai góc ao gần nhau nhất và gần tòa nhà nhất.
Tôi tạt qua phải để đi theo sườn nhà bên trái ra phía sau, nên lúc này từ chỗ tôi đứng, nhìn qua cái ao ở gần tôi, tôi thấy anh A-li-ô-sa đang đứng giữa một đám các anh khác ở gần chân tòa nhà, chỗ đối diện với cái ao đằng kia, — hơi xa, nhưng tôi nhìn không nhầm, — nhóm đấy trông rất ra dáng là "bộ đội chủ lực" của khu vực phòng thủ này.
Mặt anh A-li-ô-sa trông như thiếu máu, không hiểu là vì lao động nhiều hay vì căng thẳng, có thể cả hai; tôi vịn vào tay, anh mới biết là tôi đến, — các anh đang chăm chú vào một anh khác, anh này mặc bộ quần áo lao động màu xanh công nhân đã cũ và hơi nhom nhem, giống quần áo mấy bác khuân vác thỉnh thoảng tôi vẫn gặp bên những chiếc ô-tô chở hàng đỗ cạnh cửa hàng thực phẩm ở ngoài bến tàu điện ngầm chỗ tôi, nhưng anh này tóc sẫm và bóng, mềm mại xõa dài đến vai, có bộ ria rất là quý tộc, mặt xương xương, hao hao anh Kốt-xchi-a, nhưng rõ là từng trải và cứng cỏi hẳn hơn, và không đeo kính cận; anh này không phải anh Nhi-ka-lai, nhưng có vẻ đang là "đại ca" ở đây.
— Trật tự trật tự, anh em! Chú ý nghe tôi nói! — Nhịp nhịp hai bàn tay trước ngực, bằng giọng nói phải thừa nhận là có chất "chỉ huy" thật, anh vừa nói vừa mở to mắt, gật gật đầu nhấn mạnh vào các trọng âm, rồi hơi xoay người, tay phải ra dấu về phía sau. — Gặp ai ngoài chiến lũy thì cũng thông báo ngay. Hiện tại, như bây giờ, chưa có gì đặc biệt xảy ra, thì chúng ta cứ tùy tiện hoạt động một cách bình thường. Nhưng, — bàn tay phải anh nắm vào, chỉ chừa lại ngón trỏ và ngón cái, — thật chú ý đây! — Anh xoay hẳn người, với tay lên, chỉ về phía chiến lũy. — Chỉ cần có chuyện ở ngoài kia một cái, thì phải làm sao, lập tức, để trên chiến lũy sẽ không còn một ai cả! — Anh chỉ xuống chân. — Chúng ta cần phải ở ngay đây. Và, tôi nhắc lại để mọi người đều nhớ này! Nếu có súng nổ ở ngoài kia, — anh đầm hai bàn tay xuống, — tất cả phải nằm xuống! Việc của chúng ta sẽ bắt đầu khi nó có thể có ích nhất, và theo hiệu lệnh chung!
Anh ngửa bàn tay phải, những ngón tay để van vát theo chiều ngón trỏ, đưa lên và dừng lại lửng lơ như một câu hỏi, mắt anh mở to nhìn những người đứng gần mình nhất; các anh khác chung quanh, người gật đầu, người cất giọng vui vẻ, hoặc nghiêm túc:
— Rõ rồi! Nhất trí!..
Anh "đại ca" quay người bỏ đi rồi, tôi mới thấy trong tay anh A-li-ô-sa đang có một xấp bánh mì kẹp thịt; anh giữ lại hai kẹp, còn đưa cả cho tôi.
Chưa về tới chỗ tập kết thì tôi đã chén sạch, nên lúc anh A-li-ô-sa đưa bánh cho Vê-rôn-na và A-nhi-a, thì tôi hơi ngượng... nhưng cảm giác ngượng ngùng ấy lại chuyển sang tiếc rẻ ngay, — Vê-rôn-na, tóc mai dính má, vừa cười thành tiếng, vừa chỉ xuống chân mình: hai chị tôi không hiểu đã kiếm được ra ở đâu một chiếc túi du lịch to bát xụ, trong đựng đầy những đồ uống và bánh trái ngon lành; tôi hiểu đấy là "căng-tin" của "công đoàn", nhưng mấy kẹp bánh bút-te-brốt mà A-nhi-a để dành cho tôi lại ngon hẳn hơn bánh của anh A-li-ô-sa, có điều "ba mặt" với "hai suất bánh" thế này, mà cứ cố "ăn thêm vài con cá, dăm bảy cái chột nưa" thì e rằng sẽ không khỏi ít nhiều trơ tráo... tôi chả còn cách nào khác, là phải âm thầm cắn răng, nặn ra một nụ cười nhẹ nhõm như một bông tuyết đang hồn nhiên rơi, bảo chị tôi:
— Em vừa mới ăn xong.
Nhìn A-nhi-a, lòng tôi xót xa lắm, — Vê-rôn-na là một vận động viên thiên bẩm, còn những giọt mồ hôi trên gương mặt xinh đẹp của A-nhi-a, chúng đang làm ướt "hai hàng tóc mai" óng ả của một nàng... đúng là một nàng "tiểu thư" thật đấy, lại còn trong một bối cảnh loạn lạc như thế này.
Chị chăm chú nghe tôi sôi nổi kể chuyện chiến lũy, xe tăng, ông En-txin, với một vẻ quan hoài sâu xa, rồi chị bảo tôi về ký túc xá; nhưng có một điều mà bản thân tôi cũng hơi lạ, là vào lúc ông En-txin đứng lên nóc xe tăng và giở giấy ra, thì khát vọng "tẩu vi thượng sách" đang cháy bỏng trong tôi đã nguội lạnh ngay lập tức; vả lại không khó để hiểu là về bây giờ, có nghĩa là sẽ về một mình, — một mình lủi thủi chắp tay sau đít rời khỏi chiến địa hoang tàn Oa-téc-lô, ngay có là Hoàng Đế Nã-phá-luân, e rằng tình cảnh cũng không khỏi hết sức là tội nghiệp.
Tôi đưa mắt nhìn anh Kốt-xchi-a, anh lặng lẽ nhìn lại tôi, — từ lúc gặp lại, tôi thấy anh có vẻ lặng lẽ hơn bình thường, — đôi mắt màu hổ phách trong veo sau mắt kính thủy tinh chớp nhẹ một cái, rồi mở to ra; rồi rướn lông mày một cái, anh chả nói gì cả.
Anh Xéc-giô — mồ hôi mồ kê, áo sơ mi bẩn nhom nhem đã cởi hết cúc, phanh ra — thì chỉ thò tay xoa đầu tôi.
Nên tôi bảo A-nhi-a là các anh chị ở đâu thì tôi sẽ ở đấy, hơn nữa — ý này đến bất chợt, có lẽ do động cơ tìm lý do của tôi, nhưng lại quá là hợp lý và thực tế — chuyện này chắc không chỉ một ngày mà xong được, tối nay tôi sẽ đưa mọi người về nhà tôi ở gần đây hơn, thì sẽ tiện hẳn hơn là về ký túc xá; còn bây giờ, (trong đầu tôi hiện ngay ra khuôn hình "bố cục đẹp" của người đã nhìn tôi ở đầu dốc bên cầu), tôi còn có một cuộc hẹn với một chú bộ đội xe tăng ở phía bên kia chiến tuyến.
Đúng là tôi đang có chuyện phải hỏi thật.
Và chú bộ đội của tôi giống hệt như là vẫn ngồi nguyên ở đấy như thế để đợi chờ tôi, — tôi đi đến từ hướng tôi đã đứng lúc sáng, thì ánh mắt chú vẫn ở sẵn đấy, vẫn y như thế.
Nhưng tai chú thì hẳn không còn giống như thế được nữa, — bên cạnh chú đang có một người vừa nhấp nha nhấp nhổm, vừa bàn tán những chuyện gì đó có vẻ hết sức là sôi nổi.
Người này mặc bộ quần áo bò, loại bò Tàu, túi quần sau may chìm và có nắp cài cúc, màu quần gốc là xanh chì nhưng đã được mài bạc phếch; trong mặc cái áo phông cổ bẻ, màu cá vàng; tuổi khoảng trên ba mươi, hơi béo, đeo kính cận mắt to gọng kim loại mảnh, nét mặt thật thà theo kiểu đặc trưng của người béo, tóc đen cắt cao nhưng có mái chải ngôi ngay ngắn, — ở trường Phi Long thì đây là kiểu mặt điển hình của "cộng tác viên giữ phòng thí nghiệm", không phải loại "làm nên bản chất của môi trường" như bác Đét-lam.
— Đều quân đội cả... — Tôi trèo lên ụ pháo thì chú bộ đội xe tăng nhìn tôi chăm chú hơn, và trên môi chú rõ ràng có một nụ cười, dù không có dấu hiệu gì cho thấy là nó sẽ nở ra; còn chú béo thì đang nhiệt tình kể lể. — Bố tớ là sĩ quan, mẹ tớ ở trong quân lực, còn ông tớ... — Có vẻ đây là kiểu chủ động ngắt câu, để nhấn mạnh tầm quan trọng... — Ông tớ ngày xưa từng là bảo vệ riêng của I-ô-xíp Vít-xa-ri-ôn-nô-vích Xta-lin...
Xta-lin thì rõ là một trọng số đĩnh đạc rồi, có điều... Tôi lẳng lặng ghé vào tai — thực ra là ghé gần về phía tai thôi, vì nó ở trong mũ xe tăng — chú bộ đội của tôi, và hỏi nhỏ:
— Chú ơi, cái chiến lũy... thật sự thì cái chiến lũy này có chặn được xe tăng không?
Chú béo vàng da cam cháu ông cựu bảo vệ riêng của Xta-lin nhìn tôi với vẻ phật ý không giấu giếm, — chú bộ đội đưa tay vén cái tai mũ bên trái ra một chút, nghe tôi nói, rồi quay hẳn về phía tôi.
Tuổi họ chắc sàn sàn nhau, nhưng chú bộ đội trông người lớn hẳn hơn chú béo, mặt chú xương xương — nhất quán cùng vóc người, — đường nét đơn giản, căn bản, chân thực, và hiền lành. Sống mũi chú hơi nhăn lại một chút và một lát, và trong đôi mắt nâu (không trong như mắt anh Kốt-xchi-a, nhưng những gì được biểu hiện ở đấy gây nên một ấn tượng rõ rệt và trực tiếp hơn) đang nhìn tôi, tôi nhận ra một vẻ đồng cảm "đợi sẵn", — tự chú hẳn cũng đã phải nghĩ ngợi tương đối về chuyện này.
Nhưng chú không nói gì với tôi cả; lặng lẽ, chú lắc đầu, trong lúc lắc thì nhắm mắt lại, tới mức nhíu mày, một tí, rồi mở mắt, chú thở nhẹ ra, — là thở dài, nhưng đã được nén lại.
— Xê-rô-ga, cậu là một chàng trai rất ổn, cậu phải đứng ra bảo vệ ai là Tổng Thống hợp pháp chứ? — Chú béo cố chuyển lại hướng sự chú ý.
— Tớ làm theo lệnh Chỉ huy Sư đoàn. — Chú Xê-rô-ga trả lời một cách lãnh đạm.
— Nhưng mà Tổng Thống... thì là chỉ huy tối cao nhất, còn cao hơn Chỉ huy Sư đoàn của cậu, tức là ở đây hoàn toàn không có gì là vi phạm quân lệnh hết. — Tôi bắt đầu thấy có thiện cảm với chú béo, trong cách chú nói, hoàn toàn không nhận thấy thái độ bắt bẻ, ý kiến ý cò, đối kháng, muốn thỏa mãn nhu cầu nói lý lẽ, không có gì giống như thế cả, mà ngược lại, ở đây là một sự nhiệt thành, thân thiện, và thái độ xây dựng. — Cậu quay ụ pháo lại đi, ít ra cũng không làm cho mọi người sợ. Hãy cùng bảo vệ những gì là dân chủ. Chả nhẽ cậu vẫn còn ngại những gì đó liên quan đến chi bộ?..
— Cậu ngon đấy, Xê-rô-ga. Nhưng ai biết, đùng một cái, lại từ Lu-bi-an-ka đến thì sao? — Chú Xê-rô-ga bộ đội phảy nhẹ tay một cái, cười hiền lành; hóa ra cả hai chú đều tên là Xéc-gây.
Trụ sở cơ quan an ninh Ka-ghê-bê tọa lạc tại quảng trường Lu-bi-an-ka.
Chú Xê-rô-ga béo dường như lúng túng... rồi chú đưa tay lên túi ngực áo bò, túi hơi chật nên chú phải đưa thêm tay nữa mới móc được ra bao thuốc Winston màu đỏ nâu có vệt trắng ngang ở giữa, đưa mời chú Xê-rô-ga gày một điếu, rồi vẫn để nguyên bao thuốc ở phía đấy, chú nhìn tôi vẻ lưỡng lự, — chắc đang nghĩ có nên mời hay không, — thì tôi thấy tay mình đã tự động giơ ra: thuốc này tôi chả hút bao giờ, nhưng không phải tôi muốn thử thuốc, mà đúng là tôi đang muốn một điếu thật, thuốc gì cũng được.
Cách hút thuốc của chú Xê-rô-ga béo hơi "lớt phớt", — không kéo những hơi đậm đà như tôi và chú Xê-rô-ga gày, người đang nhìn tôi với một sự đồng cảm vui vẻ.
— Thế nếu bây giờ... — Chú Xê-rô-ga béo thở mạnh một cái (nhưng ngay cả thế, cũng không có khói bay ra từ mũi), giụi tắt điếu thuốc còn dài nghêu trước ánh mắt đầy phê phán của chú Xê-rô-ga gày. — Nếu không phải tớ... Nếu là chính En-txin ra lệnh, cậu sẽ tuân lệnh chứ?
— Ờ, nếu là En-txin, thì đương nhiên rồi. — Chú Xê-rô-ga gày nhún vai, thở khói ra mũi, cười hiền lành, nhưng ít nhiều có một vẻ hài hước.
Như sực nhớ ra chuyện gì đó, và có lẽ vội, chú Xê-rô-ga béo đứng nhổm lên, giúi bao thuốc vào tay chú Xê-rô-ga gày, bảo "Để hút!", vỗ vai người bạn mới quen này một cái, nhìn tôi, cười, gật đầu khẽ, rồi loay hoay leo xuống khỏi xe tăng, bỏ đi về hướng tôi vừa đến.
Đến khoảng bảy giờ tối, người buôn bán nhỏ Xéc-gây Brát-trích-kốp, tức là chú Xê-rô-ga béo, đã trở lại chỗ xe tăng cùng với một người nữa, tuổi chừng bốn mươi, mang quân hàm trung tá, và là Đại biểu Quốc Hội.
Đại biểu Quốc Hội, trung tá Xéc-gây I-u-sen-kốp đã bảo với thiếu tá Xéc-gây Ép-đa-ki-mốp, tham mưu trưởng Tiểu đoàn tăng thuộc Sư đoàn bộ binh cận vệ cơ động Ta-man, tức là chú Xê-rô-ga gày:
— Có thể mời anh vào Nhà Trắng được không? Tổng Thống muốn gặp anh.
Vào trong đấy, chú Xê-rô-ga đã nhận được lệnh bảo vệ Nhà Trắng từ Tổng Thống En-txin thật.
Tiểu đoàn — gồm ba đại đội — của chú Xéc-gây đã nhận nhiệm vụ hành quân về Mát-xcơ-va theo đường quốc lộ Min-xcơ từ tám giờ sáng. Tiểu đoàn trưởng cưỡi xe bọc thép đi trước, chú Xéc-gây cưỡi tăng đi sau, theo sau chú còn gần ba mươi chiếc tăng, với một đám hậu cần, chở theo vũ khí quân trang.
Đến đường vành đai của Mát-xcơ-va, Tiểu đoàn trưởng giao cho chú Xéc-gây nhiệm vụ chỉ huy Đại đội tăng số hai phong tỏa cầu Ka-li-nhin. Chú Xéc-gây bèn cử Đại đội trưởng Đại đội hai giữ bốn chiếc tăng ở lại khách sạn U-krai-in-na, sẵn sàng phong tỏa cầu từ phía bên ấy, còn chú tự dẫn sáu chiếc tới cầu Ka-li-nhin.
Trên cầu có cảnh sát giao thông, chú Xéc-gây bảo:
— Tôi đã nhận nhiệm vụ phong tỏa cầu.
Cảnh sát bảo:
— Giờ thì chả phong tỏa được đâu, phải giải tán hết xe cái đã. Giải tán, rồi sẽ chặn cầu.
Nên chú Xéc-gây mới đánh xe tăng xuống bên cầu chờ đợi.
Nếu bây giờ A-nhi-a và Phi Long, mỗi người sẽ bảo tôi làm một việc, mà hai việc này lại chống lại nhau, thì tôi sẽ phải làm thế nào?
Chắc tay trái tôi sẽ làm việc của A-nhi-a, còn tay phải làm việc của Phi Long, — hai tay đánh nhau; như thế hoặc là giống lão ngoan đồng Châu Bá Thông, tôi sẽ tự chế được ra một môn võ công thượng thừa, hoặc tôi sẽ tự làm mình bị thương; khả năng thứ hai gần như chắc, nhưng đâu còn cách khác?
Chỉ là, không cần biết thế nào, thì tôi vẫn hoàn toàn có thể làm như thế thật, chứ chú Xéc-gây thì làm sao mà chia mỗi bên ba xe, rồi lại tự bắn vào nhau?
Nhưng hẳn là trên đời sẽ chả có vị Chỉ huy Sư đoàn nào dạy chú Xéc-gây nói tiếng mẹ đẻ, còn ông En-txin thì có bao giờ lại coi chú như là em ruột chứ? Có điều nếu tôi cãi Phi Long, hay A-nhi-a, hay thậm chí cãi cả đôi, thì tệ nhất cũng chỉ đến dỗi nhau là cùng, mà dỗi đương nhiên cũng rất tạm thời thôi. Còn chú Xéc-gây thì khác đấy, — sai một li ở đây, có thể đi thẳng ra tòa án binh... mà cục diện này, nếu là trong phim, thì một loạt đạn bắn hạ ngay tại chỗ sẽ là một thực tế hiện hữu hẳn hơn.
(Còn nữa)
Truyện "Lập Trình Viên II" (Phần II — Chương 3):
Truyện "Lập Trình Viên II" (Phần II — Chương 2):
Truyện "Lập Trình Viên II" (Phần II — Chương 1):
Truyện "LẬP TRÌNH VIÊN" (Phần I — Đầy đủ):
(Đọc tiếp)