Lập Trình Viên II (1)






LẬP TRÌNH VIÊN






Phần II


EM VÀ ANH






PHI LONG






"Nàng sắp xếp vài thứ tùy thân đi, ta sắp đốt nhà đây!"






— Thế giới của chung, mà hóa ra riêng hẳn, anh nhỉ?


— Ừ, riêng lắm. Nhưng em với anh thì chung.


— Anh, không cần phải...


— Thì gần như chung, em giống anh nhiều mà.


Tất nhiên, mỗi người đi qua thế giới này trong một thế giới riêng, và thế giới ấy thế nào là tùy thuộc vào khả năng nhận thức.


Mai Phương lúc ấy vừa nghĩ xong chuyện này, nó chắc chắn không đồng ý với tôi ở ý cuối, nhưng nó không nói nữa, chỉ cười, nụ cười "khăn quàng đỏ" của nó.


Nhiều người khác trong bối cảnh tương đối cụ thể như vậy sẽ thấy nụ cười ấy thật buồn, một số người có thể thấy nó mỉa mai và chua chát.


Nhưng khả năng nhận thức của tôi về Mai Phương khác so với nhiều người khác, nên trong thế giới của tôi, nụ cười của nó là nụ cười vui, — tôi biết nó sẽ vui lắm nếu hình dung được rõ ràng rành mạch một điều mà nó đã phải mất công băn khoăn nghĩ ngợi và suy tư nhiều.


Nhưng trong bối cảnh cụ thế ấy, rốt cuộc vẫn phải có người buồn.


Người ấy là tôi.


Tôi thương Mai Phương lắm.


Bây giờ tình cảm này rất rõ.


Lúc đầu đã không như thế, mặc dù chắc là tôi đã nghĩ như thế.


Lúc ấy tôi vừa học hết năm thứ hai và trong đầu tôi có nhiều gạch đầu dòng, nhưng toàn gạch ngắn; đống gạch này chồng chéo, rối rắm và lộn xộn, nhưng tựu chung thì đơn giản, thêm hay bớt một gạch đều đơn giản. Mai Phương lúc ấy mảnh mai, xinh đẹp, duyên dáng, giọng nói trong veo, hay cười, nụ cười tươi và cách nói năng giống như trẻ con... tôi vừa gặp thì thấy trong người rất thích; dù tôi vẫn ý thức là đấy không phải tình yêu, (nếu yêu tôi sẽ yêu A-nhi-a), nhưng đấy là kiểu ý thức "tự nhủ", — một sinh viên năm thứ hai (bất kỳ ai khác?) liệu có phân biệt được tách bạch tình yêu với nhiều những tình cảm khác không?


Thậm chí ngay cả việc nó bị hỏng cả hai mắt không nhìn thấy gì, lúc ấy còn làm tôi thấy nó có một vẻ gì đấy "thanh cao".


Lúc ấy (bây giờ?) tôi còn chưa quyết định được là một người, một đời, có thể có mấy tình yêu, nhưng tôi không hề phân vân là một người, một lúc, nếu có, thì chỉ có thể có một cái, và cái của tôi, nếu có, thì phải là cái với A-nhi-a.


Đấy là lần đầu tôi xa A-nhi-a, cũng là lần đầu tôi biết một người có thể nhớ một người khác đến mức khó chịu không thể tả được như thế nào.


Hồi tôi bay đi học, ở Hà Nội chỉ có một kênh ti-vi đen trắng, người đẹp trai nhất bấy giờ là thiếu tá Đê-a-nốp tôi cũng không biết anh màu gì. Sang tây, lần đầu ngồi trên một băng ghế gỗ và nhìn thấy một bé gái có làn da trắng như tuyết (đấy là tôi suy nghĩ bằng từ vựng, chứ lúc ấy tôi cũng chưa biết tuyết thật), mái tóc vàng óng mềm mại buộc nơ trắng, đôi mắt màu nước biển xanh trong, mặc một chiếc váy bồng nhẹ nhàng màu thiên thanh, đang chơi trong vườn, ý nghĩ đầu tiên đến ngay trong đầu tôi: "Thiên Thần".


Một Thiên Thần kích thước to bằng người lớn thật, không có cánh, tỏa ra một mùi u hương mà tôi rất muốn ngửi, sờ vào được, eo lưng và tất cả những chỗ chạm vào đều mềm mềm rất thích, vào một đêm mùa hè ánh trăng nhàn nhạt, ngồi ngả tóc vàng óng ả lên vai tôi và bảo tôi "Hôn em đi", — chuyện này vượt ra ngoài mọi ý nghĩ của một người dân thuộc diện xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa của thế giới.


Nước tôi ở Châu Á, ngay sát nước Tàu, nước Tàu to, văn hóa nước tôi bị ảnh hưởng nhiều văn hóa Tàu, văn hiến chúng tôi và văn hiến Tàu đều hết sức nghèo nàn những chuyện học tập kiến thức chuyên môn, ngược lại thì đầy đặc những chuyện đối nhân xử thế, những bài học dạy một người các cách để đối phó với những người khác sao cho có lợi cho mình; cho nên không giống ngữ cảnh trong câu truyện dân gian người đốt hổ trâu cười gãy răng, chúng tôi không quen để "trí khôn của ta" ở nhà, mà luôn kè kè nó bên mình, và dường như chăm giở nó ra.


Chúng tôi vẫn quen giở "trí khôn của ta" ra ngay cả khi tâm tình.


A-nhi-a không phải chúng tôi, và tôi càng quen thân với A-nhi-a thì càng cảm thấy rất rõ có những cái gì đó buộc chặt cứ được cởi dần ra trong mình, làm cho mình rất nhẹ nhõm và sảng khoái. Lúc đầu tôi chỉ biết thế, rồi tôi dần dần hình dung được tại sao lại thế, và chuyện này giống như một làn ánh sáng nhẹ nhàng ấm áp chiếu vào lòng một người dân thuộc diện đem trường học đến với trẻ em vùng sâu vùng xa của thế giới.


Và trong tôi lúc ấy cũng đang bắt đầu hình thành những đường nét tri thức "chánh đạo" căn bản, (An-na-tô-li An-tô-nô-vích, thày ơi!), tôi mong muốn, tin tưởng, và nhiệt thành.


Mai Phương đã bước vào cuộc đời tôi đang như vậy, ngay lúc tôi đang xáo trộn, mất ngủ, quầng xanh dưới mắt lên vì nhớ A-nhi-a.


— Hì, bác Đại đang giục ra ứng cử hội đồng... ba đang phải ra sức từ chối. — Nó đang cười, bàn tay nó, nằm trong bàn tay tôi, khẽ nhấp nhấp.


Tôi lại ngạc nhiên nhìn nó, — chuyện này thực ra rất quen, nhưng tôi vẫn luôn bị ngạc nhiên. Hôm nay là ngày sinh nhật công ty, bác Bang — bác Bang làm "tổng quản" cho bố Mai Phương; đúng ra gọi là "trợ lý", nhưng tôi gọi bác là "tổng quản" không phải là gọi vui theo kiểu phim Tàu, mà vì tôi thấy phải gọi bác như thế thì mới đúng — cho tổ chức trong một khu rộng, riêng, của nhà hàng. Trong gian này không có chỗ thấp, chỗ cao, nhưng ở vị trí "thượng tọa" kê một chiếc bàn tròn thật to, khăn bàn màu hồng điều, quanh bàn ngồi không kín chỗ, nhưng toàn những người lớn, đĩnh đạc; chú Cao — chú Cao là bố Mai Phương — ngồi ở chủ tọa, sơ mi trắng, com-lê, gi-lê, và cà vạt đen, đúng là đang phân bua gì đó với một bác người đậm, cà vạt tía, đeo kính gọng vàng; chú Cao vừa nói, vừa cười "nhăn nhó", rồi hai tay cầm hai ly rượu, chắc là vang đỏ, kính bác kia một ly. Các bàn khác cũng giống như bàn thượng tọa, nhưng bé hơn; tôi với Mai Phương ngồi cách bàn đấy một quãng, không xa, nhưng tôi hầu như không nghe thấy gì, chưa nói hiểu được chuyện, từ đấy.


Tai Mai Phương bây giờ quả thật khác hẳn tai tôi.


Dạo này tôi vẫn nhìn hộ nó, còn nó thường nghe hộ tôi rất nhiều thứ mà tôi không nghe thấy. Lúc mới về nước, thấy chúng tôi hay ngồi rủ rỉ, kiểu ngồi "tay trong tay" của anh em tôi, một đứa thì liên tục ngó nghiêng khắp chung quanh, một đứa thì cúi đầu, nghênh nghênh nghe ngóng, cô Lan — cô Lan là mẹ Mai Phương — và chú Cao đã nhìn chúng tôi với ánh mắt rất "không quen", rồi trao đổi cái nhìn với nhau; tôi hơi cảm thấy lúng túng, nên ghé tai thì thầm vắn tắt với Mai Phương, nó cười giòn tan, rồi theo một cách huyênh hoang hài hước giải thích cho ba mẹ nó nghe về cơ chế "tâm truyền" đặc biệt "cao thâm mạt trắc" này, thì hai cô chú cũng cười rất vui; nhưng thi thoảng tôi vẫn nhận thấy ánh mắt cô Lan nhìn chúng tôi, thế nào đó, vẫn "không quen".


Như lúc này cũng vậy...


Và tôi vẫn thấy lúng túng, và còn giật mình, vì đúng lúc ấy Mai Phương hỏi:


— Mẹ em đang làm gì?


Chú Cao là người Sài Gòn, còn cô Lan là người miền Bắc, tổ nghiệp gốc ở Hà Nam. Cô nói hoàn toàn giọng Hà Nội, nhưng cách nói của cô không giống tôi. Tôi thấy cô luôn dùng câu đầy đủ hơn tôi, kiểu giống với văn viết hơn văn nói. Cách nói của cô có phần coi trọng mạo từ và đại từ nhân xưng. Ví dụ, cô sẽ không gọi "Phi Long, ra cô bảo cái này", mà sẽ gọi "Cháu Phi Long ơi, cháu ra đây cô sẽ nói với cháu một chuyện này". Và những từ có dấu "sắc", tôi thấy cô nói "sắc" hơn tôi. Mai Phương hồi nhỏ đã học theo cách nói của mẹ vì nó thích nghe hơn, và nó vẫn luôn tâm đắc về chuyện này, nó bảo: "Đúng là tiếng Bắc trong hơn và âm sắc... nó nhạc cổ điển hơn!"


Nhưng nó vẫn dùng nhiều từ vựng Sài Gòn. Nó gọi chú Cao là "ba", gọi cô Lan là "mẹ".


Thực ra tôi thấy chú Cao cũng giống người Bắc; cả khuôn mặt xương xương, vóc dáng không thô không thịt, cả điệu bộ, tôi thấy đều Bắc; đầu tóc trang phục thì Bắc khỏi nói, vì hoàn toàn theo cách của cô Lan; chỉ có nước da, và nhất là nụ cười, là không Bắc lắm.


Tôi bảo Mai Phương:


— Góc mười một giờ, đang ngồi tiếp chuyện một bác gái mặc một bộ vét hồng nhạt...


— Tóc thế nào?


— Tóc đen đến chớm vai, ngôi trái hẳn, mặt...


— Mặt bầu bĩnh, sống mũi... hơi tẹt?


— Ừ. — Tôi phì cười.


— Bác Hồng "nghị sĩ" đấy.


Hôm nay cô Lan mặc áo dài, búi tóc, và đeo một cái kiềng vàng nhỏ. Chiếc áo dài này hôm trước hai cô chú đã nghĩ mãi mà không biết màu của nó phải gọi là màu gì, còn Mai Phương lúc ấy đã hậm hực định mang ngay đến công ty để cho máy tính của nó "nhìn"; vừa lúc tôi đến, Mai Phương mừng ra mặt, bảo: "Đây rồi, không cần máy tính nữa, người làm cho cái máy tính nhìn được màu đây!"


Hồi trước, vì có đợt đã bỏ tương đối thời gian và căn bản là dùng cả máy tính để ngồi tính cẩn thận màu mắt A-nhi-a, và tôi còn có một nghiên cứu nho nhỏ về môn này, để hỗ trợ cho cái chương trình "nhìn — kể" mà Kốt-xchi-a đang viết cho Mai Phương, cho nên tôi rất thạo các cách gọi tên màu. Tôi ngắm nghía cái áo; chú Cao nhìn cô Lan, rồi bảo tôi:


— Màu cá hồi, đúng không?


— Màu cá hồi nó... "bè" hơn màu này, màu này... đúng nhất... đúng rồi, là màu san hô An-giê-ri! — Tôi gần như reo lên, cũng mừng ra mặt, phấn khởi về hiểu biết thuật ngữ màu sắc của mình.


Nhưng cả hai cô chú đều có vẻ ngỡ ngàng, lúc ấy đang vui nên tôi nói năng đơn giản, tôi bảo Mai Phương:


— Hình như họ không tin, em ạ.


Nó bảo:


— Các vị yên tâm, yên tâm đi, chuyên gia này "hàng hiệu" thật đấy!


Hôm nay nó cũng mặc giống y cô Lan, chỉ khác là áo dài nó màu trắng, còn kiềng là kiềng bạch kim. Hôm trước tôi nói theo cách tôi nghe thấy người ta nói, bảo cái kiềng ấy là vàng trắng, nó lắc đầu lia lịa:


— Không phải vàng trắng, là bạch kim.


— Vàng trắng, bạch kim... Hì...


— Không, hai thứ đấy khác nhau thật đấy...


— Một tên mà...


— Bạch kim chắc là tên có trước, là tên hóa học tiếng Việt của Pla-tin. Còn vàng trắng là trộn thêm các kim loại trắng quý khác vào vàng, mạ cả ra ngoài nữa, để làm đồ trang sức bằng vàng, nhưng có màu trắng; đấy là tên dịch, từ từ "white gold", chỉ... vô tình trùng nhau.


Con nhà giàu có khác.


Cô Lan thấy cả hai chúng tôi hướng về phía ấy, cô cười, giơ bàn tay trước ngực, vẫy vẫy, nói gì đó với bà "nghị sĩ", bác tên Hồng vừa ngoảnh lại thì một cái đầu lân râu ria, vảy vằn vện xanh đỏ đã xen ngay vào giữa tầm nhìn...


Gian "sinh nhật" này to, nên đã kê rất nhiều bàn nhưng ở giữa vẫn chừa được ra một khoảng rất rộng, đủ cho một đám múa lân, — thực ra tôi không biết con kia là lân hay rồng, nhưng đám này tôi thấy vẫn được gọi là đám múa lân, nên tôi gọi là con lân, — với một con lân dài lê thê vừa vặn vẹo cái đầu vừa chạy, tức là bay, ngoằn ngoèo, tung tăng.


Tiếng trống hòa nhịp với tiếng chũm chọe, không to, nhưng rất nhộn nhịp; mọi người — cũng đông — vẫn đứng lộn xộn xung quanh xem múa lân cũng vui vẻ xôn xao, nên lúc cái đầu lân chợt xen vào, tôi lại thấy ngạc nhiên, làm sao Mai Phương nghe thấy chú Cao nói chuyện từ tít đằng kia, không hiểu tai nó kiểu gì? Bất giác tôi nhìn sang, thì thấy nó đang giơ tay, mặt mũi hớn hở; tôi vội ngoảnh ra, thì thấy cái đầu lân đã vặn vẹo ở ngay sát gần; sao nó biết cái đầu lân đang chạy qua đây?


— Cho nó ăn đi! — Nó giúi vào tay tôi một bao lì xì màu đỏ, hình như to hơn bao ngày Tết, ở ngoài vẽ một thằng quan béo tròn, để bộ râu ba chòm đen láy, đủ cả mũ áo cân đai, đang cười híp mắt; hớn hở giục tôi.


"Cho ăn"?.. Tôi vội nhoài người, thò tay đút bao lì xì — cũng không chắc lắm là làm thế có thật đúng cách hay không — vào khoảng trống rộng hoác: cái mồm con lân. Có một bàn tay chạm khẽ vào tay tôi, lấy bao lì xì. Cái đầu lân mừng rỡ rung rung mạnh, lắc lư nhanh hẳn lên, bốc lên cao một chút, nhún xuống, cà lại gần, rồi vằng nhẹ một cái, quay trở lại vòng chạy tung tăng cũ.


Cái đuôi con lân — với những chiếc vảy to được vẽ màu sặc sỡ y như những đốm lông đuôi của một con công — vừa ngoằn ngoèo vút qua, thì trong tầm nhìn của tôi có cái gì đấy làm cho tôi có một cảm giác hơi vướng víu. Thực ra cảm giác này có trước, hay cái đuôi chạy qua — tức là khung cảnh mới này hiện ra — trước, tôi không phân biệt được chính xác.


Có những người khách mới vừa bước vào.


Đi trước là ba người, có những người khác theo sau, cả thảy chừng chục người. Những người này ăn mặc giống với những người đang ngồi ở bàn "thượng tọa": com-lê sẫm, cà vạt nhã, người bên trái trong ba người còn đủ cả gi-lê, — toàn đồ "người lớn".


Nhưng vì sao đó, tôi không thấy họ giống những người đang ngồi quanh chiếc bàn kia. Nhất thời tôi cũng không biết vì sao, nhưng cảm giác này rất rõ ràng. Bất giác, tôi ngoảnh lại.


Bác Bang đứng bên cạnh, đang cúi xuống ghé vào tai chú Cao nói gì đấy. Chú Cao ngẩng lên nhìn, rồi vừa cười vừa quay ra nói gì đó với những người đang ngồi cùng bàn, rồi chú đứng lên, đi cùng với bác Bang. Hai người ra đến nơi thì anh Ngạn đã đang đứng ở đấy nói chuyện với những vị khách vừa tới.


Tôi thấy chú Cao đi đâu cũng đi với bác Bang và anh Ngạn. Anh Ngạn là lái xe, nhưng có lần đi cùng, đến gặp đối tác ở một công ty khác, tôi thấy anh cũng vào ngồi cùng, chứ không ngồi chờ ở ngoài xe.


Chú Cao ra đến nơi thì tôi thấy chú, bác Bang, và những người khách chào hỏi, cười thành tiếng, còn vỗ vai nhau rất là thân mật, rồi bác Bang và anh Ngạn dẫn họ qua gian bên cạnh, chú Cao đứng lại, nhìn theo, xòe hai tay, nhún vai, cười "nhăn nhó", rồi quay trở lại bàn "thượng tọa".


Gian bên cạnh là một sòng bạc...


(Còn nữa)


MinhCQ

Chưa có bạn nào ý kiến ý cò gì cả (không tính facebook).

Giơ tay bi bô phát biểu bằng nick Google, WordPress...

Bi bô bằng nick facebook, Yahoo...