Tướng Lê Mã Lương: "Không sợ chiến tranh nên mới có hòa bình"

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trong lịch sử, Trung Hoa đã phát động 16 cuộc chiến tranh lớn hòng thôn tính Việt Nam. 

Tướng Lê Mã Lương: 
"Không sợ chiến tranh nên mới có hòa bình"

QUỐC TOẢN (THỰC HIỆN) 
Giáo dục Việt Nam
24/02/16 09:47

(GDVN) - Chúng ta đã để lại “khoảng lặng” hàng thập kỷ về chiến tranh Biên giới 1979. Sự thiếu sót này là có tội với lịch sử, tiền nhân, đồng bào... 
 Tướng Lê Mã Lương: Nếu không lường trước nguy cơ, con cháu sẽ phải gánh hậu họa

LTS: Thông tin thời gian tới, khi công bố khung chương trình tổng thể, chương trình bộ môn, Bộ GD&ĐT sẽ xem xét để đưa nội dung về các cuộc chiến tranh vệ quốc bảo vệ biên giới, hải đảo (1976 - 1988) vào sách giáo khoa khiến dư luận hết sức quan tâm.


Trước đó, nội dung về cuộc chiến tranh vệ quốc này chỉ được đề cập rất ít trong sách giáo khoa...

Xung quanh nội dung này, phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc phỏng vấn với Thiếu tướng Lê Mã Lương, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Quân sự Việt Nam.

PV: Theo ông, cần nhìn nhận như thế nào cho đúng với bản chất cuộc chiến tranh Biên giới 1979?
 
Tướng Lê Mã Lương: Về bản chất, đây là một cuộc chiến tranh xâm lược mà đối phương đã có ý đồ (từ những năm 50 của thế kỷ trước), nhằm đưa các nước Đông Nam Á vào trong quỹ đạo của Trung Quốc.

Mặt khác, Việt Nam là nước có một vị trí chiến lược, địa chính trị cực kỳ quan trọng ở Đông Nam Á.

Trong lịch sử, Trung Hoa đã phát động 16 cuộc chiến tranh lớn hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam để thôn tính Đông Nam Châu Á.

Nhà cầm quyền Trung Quốc lúc bấy giờ muốn nắm Việt Nam, khống chế bán đảo Đông Dương, tạo hành lang xâm nhập Đông Nam Á.

Họ coi chúng ta là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược “trỗi dậy Trung Hoa” như cái cách ông Chu Ân Lai từng nói trong cuộc gặp giữa đại biểu 4 đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Lào) tại Quảng Đông tháng 9/1963.

"Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cửa một con đường xuống Đông Nam Châu Á..."

Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế, ngăn cản cách mạng của chúng ta lớn mạnh để tiện thực hiện âm mưu mở rộng ảnh hưởng của mình.

Rằm tháng Giêng trẩy hội đền Và

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook


Rằm Tháng Giêng trẩy hội Đền Và


Nguyễn Xuân Diện

Trong không gian hùng vĩ, thơ mộng với những núi đồi sông suối quanh quất, xinh tươi, đền Và hiện ra như một công trình kiến trúc thâm nghiêm và hòa quyện với rừng lim già tỏa bóng rợp quanh năm. Đền Và, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây là một trong bốn cung thờ Thần Núi Ba Vì - Tản Viên Sơn Thánh, Đệ Nhất Phúc Thần trong Tứ bất tử của tâm thức dân gian Việt Nam, đây cũng là một trong hàng trăm di tích thờ cúng Ngài.

alt
Đền tọa lạc trên một gò đất rộng và thấp hình một con rùa đang duỗi bốn chân và ngóng đầu xuống đầm Vân Mộng hướng về phía mặt trời mọc. Vào những ngày xuân, cả không gian chìm trong màn sương mờ huyền ảo nơi cánh đồng có tên gọi Khói Nhang bao quanh khu đền cổ...Ngay lối vào đền là tấm bia Hạ mã tự nói lên quy mô và tầm quan trọng của ngôi đền. Xưa, bất kể là vua, quan hay dân thường đều dừng mọi xe kiệu trước tấm bia này để tỏ lòng thành kính với thần Tản Viên. Một con đường sạch sẽ cát mịn dưới bóng mát rừng lim già dẫn vào khu đền chính.

altKhu vực bên ngoài là giếng nước và điện thờ Cô Chín Thượng Ngàn, người quản cai non ngàn thăm thẳm. Bên cạnh là động Ngũ hổ, có thờ tượng năm ông hổ, năm màu sắc, trấn giữ các phương, biểu tượng của đại ngàn uy nghiêm.

altNghi môn trông như một tòa Ngọ môn uy nghi hiện ra trong tán lá cây đại già có đến mấy trăm năm tuổi, dẫn vào cảnh quan bên trong, với gác trống gác chuông kiến trúc xinh xắn, thanh thoát đối xứng nhau qua sân gạch Bát Tràng rộng thênh thênh. Hai dãy tả hữu mạc hai bên và tòa tiền tế ở giữa mái rêu cổ kính.

alt
Đền Và - một ngôi đền văn học
.
Tòa tiền tế là một toà nhà 5 gian, để thoáng bốn bề, treo la liệt các hoành phi câu đối trải các triều đại đều do các nhà Nho, các danh sĩ soạn ra, mà nét vàng son và ý tứ thâm trầm mãi còn nhắc nhớ đến uy linh của Thần. Kia là bức gỗ khắc bài thơ mà tác giả là Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Khản, anh trai thi hào Nguyễn Du, khi ông làm Trấn thủ Sơn Tây có đến đền tạ ơn Thánh Tản ba lần. Ông viết: “Chiêm bái chút từng ba độ đến / Trộm nhờ linh đức trấn phương Đoài”.

Nhớ Hội Lim, nương vào câu ca Quan họ

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Nhớ nhau, nương vào câu ca quan họ
Nguyễn Xuân Diện

Cho đến nay, đã từng có rất nhiều giả thuyết về sự ra đời và nguồn gốc của quan họ nhưng chưa có giả thuyết nào được chấp nhận một cách tuyệt đối. Ngay chữ Quan họ, chúng ta cũng chưa tìm được một văn bản Hán Nôm nào chép hai chữ này. Quan họ có từ bao giờ cũng chưa có câu trả lời xác quyết!

Không gian văn hóa quan họ trải dài khắp 49 làng quan họ cổ của trấn Kinh Bắc xưa, nay thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Đó là vùng đất cổ xưa, với những ngôi chùa hàng ngàn năm tuổi, những hội hè đình đám, những phong tục tốt đẹp, những vị công hầu khanh tướng, những ông nghè ông trạng và những giai nhân tài sắc. Người Kinh Bắc có câu: Em đi khắp bốn phương trời/ Không đâu lịch sự bằng người ở đây.

Thời gian của Quan họ là suốt bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Nhưng mùa Xuân mới thực sự là mùa của quan họ. Khi ấy “thong thả nhân gian nghỉ việc đồng”, các làng vào đám, nam thanh nữ tú đua nhau trẩy hội tưng bừng. Người Kinh Bắc hát quan họ trên thuyền, trên đồi, trong chùa, trong đình, và trong các tư gia...

Trai gái các làng quan họ lại thường tụ tập thành từng bọn (từ cổ, chỉ một nhóm người) để cùng nhau hát. Một bọn quan họ thường là những người trong một làng với nhau, với ý là để đối đáp với làng khác. Gặp nhau, người quan họ dùng những lời xưng hô thật nhún nhường, lịch sự. Bên nào cũng vui vì gặp gỡ, cũng mong được học lấy đôi lối đôi câu. Những bọn quan họ gặp nhau, thường là hát với nhau thâu đêm suốt sáng ở nhà chứa (nhà ông trùm của một bọn quan họ), và nghỉ lại ở nhà quan họ bạn của mình. Đó là tục ngủ bọn, có từ thưở xa xưa lắm!

Về lề lối, theo học giả Toan Ánh thì quan họ có nhiều giọng, nhưng có ba giọng chính để hát đối đáp trong những ngày hội. Đó là Giọng sổng (dùng để dạo giọng lúc bắt đầu hát), thường là những lời ướm hỏi như: Hôm nay tứ hải giao tình/ Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà. Tiếp theo là Giọng vặt (những câu hát để đôi bên gắn bó với nhau). Giọng sổng chỉ có một giọng, còn giọng vặt thì là gồm nhiều giọng: giọng buồn, giọng vui, giọng cao, giọng thấp, giọng ngắn, giọng dài. Gặp nhau, người quan họ kể cho nhau rằng đêm đông lạnh giá, nhớ bạn, không dám, một mình đắp cả manh chiếu tấm chăn:

Tướng Lê Mã Lương: CẦN SỰ TÔN VINH XỨNG ĐÁNG!

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Anh hùng LLVTND Lê Mã Lương: Không tô vẽ cũng không xóa nhòa, chỉ cần làm sáng tỏ cho đúng tính chất của cuộc chiến, thế là đủ!
.
Anh hùng LLVTND Lê Mã Lương:

Chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979: 
'Đã đến lúc phải đưa lịch sử về đúng giá trị của nó'
16.02.2016

Thiếu tướng, Anh hùng LLVTND Lê Mã Lương nhận định: “Đây thực chất là một cuộc chiến tranh chính nghĩa nhằm bảo vệ Biên giới phía Bắc mà quân dân ta đã chiến đấu và chiến thắng. Cần phải tự hào về điều này cũng như phải có hành động tương xứng với giá trị của những sự cống hiến, hy sinh lớn lao và bi hùng đó”.

Chuyện của người trong cuộc chiến

Là một người lính bộ đội Cụ Hồ trưởng thành từ những năm kháng chiến chống Mỹ, Anh hùng LLVTND Lê Mã Lương từng tham gia với vai trò cán bộ Trung đoàn 568, thuộc Sư đoàn 328 trực tiếp chiến đấu tại mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) vô cùng ác liệt.
Chính ông là một trong số các nhân chứng lịch sử quan trọng cho chuỗi thời gian mà ông cùng với các đồng đội của mình cùng sát cánh bên nhau chống quân xâm lược Trung Quốc xâm phạm biên giới Việt Nam từ năm 1976 tới mãi năm 1988.
Nhân dịp kỷ niệm 37 năm cuộc chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc(17/2/1979 - 17/2/2016), Thiếu tướng - Anh hùng LLVTND Lê Mã Lương (Nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam) đã có cuộc chia sẻ với phóng viên Báo điện tử PetroTimes để nói rõ hơn những điều mà chỉ có người trong cuộc mới có thể hiểu được cũng như nguyện vọng muốn gửi gắm tới thế hệ tương lai của đất nước.
.Mở đầu câu chuyện, tướng Lương khẳng định: “Trong hệ thống từ điển, tư duy quân sự hay trong gen của con người Việt Nam thì chưa bao giờ xuất hiện cụm từ “sợ hãi”, “lo sợ” cả. Ngay từ buổi đầu dựng nước thời Hùng Vương cho tới thời đại Hồ Chí Minh và đến ngày nay cũng vậy, người Việt Nam không bao giờ biết sợ hãi kẻ thù cả. Và lịch sử đã chứng minh rõ ràng rồi”.
Ông cũng nêu rõ, Việt Nam tuy là nước nhỏ nhưng trong tư duy và chiến lược phòng thủ đất nước thì không hề nhỏ. Chúng ta không bao giờ chủ động gây chiến trước, chỉ khi nào tình thế bị ép buộc thì phải đứng lên đánh đuổi kẻ thù xâm phạm đến biên cương, bờ cõi mà thôi.

Tết thế kỷ XVII

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Tết Nguyên đán là những ngày vui vẻ nhất trong năm của người Việt Nam. Joseph Tissanier, người Pháp, sống ở Thăng Long từ 1658-1663 đã dự năm cái Tết ở đây, tả rõ rằng, vào dịp này người Việt sửa soạn mọi cái cho long trọng, từ nhà cửa đến đề ăn, áo mặc. Túng cực đến đâu cũng phải kiếm cho đủ tiền bạc tiêu dùng ba ngày Tết. Có những kẻ nghèo khổ, phải đi ăn cắp vặt hoặc dùng võ lực cướp của người khác, hầu được sống dung dung trong những ngày đầu Xuân [1]. Vì vậy trong những đêm gần Tết, nhiều nhà phải thức đêm canh trộm.

Cuối năm, các chợ Tết hết sức nhộn nhịp, vì mọi người giàu sang, nghèo hèn đều đi mua sắm. Quan cũng như dân đều lo may quần áo mới, dọn dẹp nhà cửa cho khang trang, sửa sang võng cáng, tàn lọng, đắp lại mồ mả, cột nhà tường vách treo đầy câu đối, tranh vẽ, vua chúa cũng cho quét dọn lăng tẩm…[2]

Theo Bento Thiện viết năm 1659: “đến gần ngài bết bua chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngài” [3], trong đó những ngày nghỉ Tết được ấn định rõ ràng. Thường bắt đầu nghỉ từ ngày 25, 26 tháng chạp, và có thể kéo dài tới ngày 10 hay 15 tháng giêng. Những ngày đó, nếu có chiến tranh, cũng tạm ngưng để ăn Tết. Từ ngày 25 tháng chạp, ấn dấu của vua chúa, quan quyền đều được lau chùi sạch sẽ, cất vào hộp, không dùng tới; khí giới quân đội cũng lau lọt sáng nhoáng để một nơi.

Chúng ta thử coi, năm 1659 thầy giảng Bento Thiện đã viết về Tết Nguyên đán thế nào: “Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vãi, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy vua chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì vua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ. Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kì. Vua chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mừơi ngày. Lại xem ngày nào tốt, mới mở ấy ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội đài, ngoại hiến, phủ huyện, quan đăng nha môn, mới có kiện cáo”. Chính Bento Thiện lại viết chữ quốc ngữ đoạn trên như sau: “Thóy nước Annam, đầu Năm mùỏ một tháng giang gọi là ngài tết. Thien hạ đi lại bua, đoạn lại chúa mớy lại oủ bà oủ bải cha mẹ củ kẻ cả bề tiên, quan quièn thì lại bua chúa, thứ dân thì lại bụt tlưác, ăn tết ba ngài mà một ngài tlưác mà xem ngài mùỏ hay mùỏ ba, ngài nào tốt, thì bua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ blờy hiẹu thien thưạng đế hoàng địa kì. Bua chúa thì lạy mà xin cho thien hạ được mùa củ dân an, đến mùỏ bải mùỏ tám mớy hết củ làm cỗ cho thien hạ ăn mươỳ ngài, lại xem ngài nào tốt, mơý mở ấn ra cho thien hạ đi chầu củ làm vịec quan, củ hỏi kịen mọy vịec, lại làm như tlưác mớy khai cuác, thien hạ bào chầu bua,từ ấy mớy có phien đi chầu, nộy đài ngoặy hién phủ huịen quan đảng (đăng?) nha môn, mớy có kịen cáo”[4]

Mấy ngày cuối năm, một số người già cả không dám ở nhà mình, nhưng phải đi trú trong đền chùa, được coi là chốn nương thân an toàn nhất. Vì họ tin rằng, dịp này có một thứ “quỷ” tên là Thưang (Thương) hay Voutuan (Vũ tuần) [5] chuyên đi bóp cổ sát hại những người già nua, nam cũng như nữ. Do đó nhiều người giả phải lẩn tránh trong đền, chùa cả ngày đêm không dám bước ra ngoài. Mãi đến lúc giao thừa họ mới dám về nhà, vì nghĩ “quỷ” ác ấy đã đi khỏi. Bởi đấy dân chúng gọi ba ngày cuối năm là ba ngày chết. Cuối năm nhiều người còn dùng vôi vẽ trước cổng ngõ, những hình vuông, tròn, hay tam giác, nhất là hình con mèo, trong số các hình, thì hình tam giác và con mèo làm cho ma quỷ sợ nhất. [6]

Tối ba mươi Tết mọi nhà đều dựng cây Nêu trước cửa. Đó là một “cột” thường làm bằng tre, cao hơn nóc nhà một chút (nên biết, ở thủ đô Thăng Long thế kỷ XVII, chỉ có nhà trệt, kể cả đền đài vua chúa). Gần ngọn cây Nêu người ta cột một cái giỏ hay chiếc hộp thông nhiều lỗ, bên trong đựng vàng mã. Vì theo Alexandre de Rhodes, dân chúng tin rằng, dẫu ông bà cha mẹ đã chết, nhưng các ngài cũng cần tiêu xài, và nhất là để trả những món nợ chưa xong khi còn sống. Theo phong tục Việt Nam thời đó, cứ cuối năm mãn chạp, liệu sao tính sổ sách cho xong: ai còn nợ, cố gắng trả cho sạch; nếu có tiền cho vay cũng phải đòi lại hết. Không ai muốn để giây dưa sang năm mới. Mọi thứ nợ cũ phải thanh toán hoàn toàn, trừ trường hợp bất khả kháng. Bởi lẽ, còn nợ sợ rằng, nếu đến ngày ba mươi Tết mà chưa trả, lỡ ra chính ngày mồng Một chủ nợ đến nhà đòi, thì thật là xui xeo suốt cả năm. [7]

Theo tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Thầy giảng Bentô Thiện năm 16559, mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, thì dân chúng lại dựng cây Nêu vào sáng ngày mồng Một; điểm này có lẽ ông Thiện ghi không đúng. Còn về ý nghĩa cây Nêu, ông Thiện lại trình bày khác. Theo ông, thì tục truyền rằng Đức Phật và quỷ tranh giành đất nhau. Đức Phật nói cho quỷ hay, hễ ngài trải áo cà sa tới đâu thì đất đó thuộc về ngài, còn lại là phần quỷ. Vậy Đức Phật trải áo ngài ra khắp mặt đất, làm cho quỷ không có đất ở, đành phải xuống biển. Nhưng cứ hết năm cũ, ma quỷ lại tranh đất với Đức Phật. Bởi đấy, mọi người phải dựng cây Nêu từ sáng sớm ngày mồng Một, để quỷ biết rằng đó là đất của Đức Phật đã trải áo cà sa tới; còn ai không dựng cây Nêu là đất của quỷ. [8]

Đến nửa đêm giao thừa, trong vương phủ (phủ chúa Trịnh) ba súng đại bác nổ vang báo hiệu bước sang năm mới. Theo Marini, người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658, thì chính lúc giao thừa mọi người đều hội họp trong nhà và bó buộc phải mở cửa hầu đón tiếp tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Giường chiếu cũng đã dọn sạch sẽ, để tổ tiên nghỉ ngơi sau nhiều ngày đàng mệt nhọc mới về tới nhà con cháu. Ngoài ra cũng đặt ngoài hiên nhà một chậu nước sạch, một đôi giép hay guốc, và có khi hai cây mía nữa. Làm thế để hồn tổ tiên trước khi vào nhà cũng rửa chân, đi guốc cho sạch, trước khi lên giường; còn hai cây mía được coi như hai chiếc gậy giúp tổ tiên chống bước vào nhà. Mọi người sau giờ giao thừa, đều tưởng tượng là tổ tiên đã vào nhà cách vô hình [9]. Lúc đó gia trưởng nói mấy lời chúc mừng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ, khói hương nghi ngút. Gia trưởng cùng mọi người trong nhà làm lễ cùng vái, tạ ơn tổ tiên, mời tổ tiên cùng chung vui với họ, và xin phù hộ cho con cháu năm mới được bằng an, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Liền đó trong gia đình mừng tuổi nhau: con cái lạy cha mẹ, tôi tớ lạy chủ nhà, rồi cha mẹ ban quà mừng tuổi cho con cháu, tôi tớ.

Trong ba ngày tết, nhất là ngà mùng Một, người ta đi chúc tuổi nhau; vào nhà nào cũng được mời ăn, nếu từ chối là bất lịch sự. Ngày mồng Một Tết, khi vừa ra đường mà trước tiên lại gặp phải người đàn bà, thì họ liền về nhà, chờ hai, ba giờ sau mới dám ra đường; trái lại họ sẽ gặp xui. Nhưng nếu bước chân ra đường, trước tiên lại gặp được một người đàn ông, thì thật hên. [10]

Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha mẹ, chú bác; trò phải tết thầy… Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.

Đồ tết của người dưới đối với người trên hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2 đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp) gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết, rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa ban.

Ba ngày cuối năm, bốn mươi đại quan thuộc triều đình và vương phủ, đi nhận lời tuyên thệ trung tín của các quan văn võ, và có khi cả gia đình họ nữa. Đó là lời thề trung thành với vua chúa; nếu nhận thấy điều gì có thể nguy hại cho vua chúa hoặc cho quốc gia, họ phải đi tố cáo. Đấy là lễ tuyên thệ tại thủ đô Thăng Long. Còn tại các Xứ, thì quan Trấn thủ, Đốc trấn và Lưu thủ [11] đại diện cho vua chúa, nhận lời thề các quan trực thuộc. Trong dịp này bất kể ai tố cáo ra một cuộc mưu phản, thế nào cũng được thưởng. Phần thưởng không những tuỳ theo tính cách quan trọng vụ âm mưu, mà còn theo chức tước người tố cáo. Nếu kẻ tố cáo là một viên quan, thì họ chỉ được hưởng tuỳ theo ý muốn vua chúa, vì nhiệm vụ của họ là phải giữ trật tự an ninh quốc gia; nếu là người dân thì được thuởng cho một phẩm hàm hoặc được thăng quan chức; hơn nữa khi tố cáo được vụ phản loạn lớn, chúa Trịnh còn ban thêm cho họ tới 500 lượng vàng hoặc 5.000 lượng bạc. Tuy nhiên dân chúng không chuộc tiền thưởng bằng được thăng quan. [12]

Ngày ba mươi Tết, Tây định vương Trịnh Tạc cùng quan quân theo hầu, ra khỏi vương phủ để đi tắm ở sông hoặc tại một chiếc nhà gần đó, hầu thanh tẩy cuộc sống dĩ vãng, đón nhận đời sống mới trong năm tới. [13]

Sáng ngày mồng một Tết, cũng như ngày một và rằm mỗi tháng chúa Trịnh cùng các quan đến chầu vua Lê; dĩ nhiên ngày mồng Một Tết buổi chầu được tổ chức long trọng hơn cả [14]. Nhưng khi Trịnh Tạc thế vị cha lên cầm quyền (1657), ông lấn đoạt quyền hành vua Lê nhiều hơn, ông cũng không đi chầu vua vào các ngày mồng một và rằm mỗi tháng. Hơn nữa, dường như từ năm 1658 trở đi, Trịnh Tạc cũng không đích thân đi tết vua, mà chỉ đón vua đi tế Nam giao. Tuy nhiên, ông cử một quan đại diện đến tết vua và chầu vua mỗi tháng hai lần.

Sau khi tết vua, các quan trở lại tết chúa. Theo Tissanier và Tavernier thì khung cảnh tết chúa long trọng hơn tết vua nhiều. Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng và phải lạy sát đất 4 lần [15]. Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng [16] xin ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì chúa cũng không nhận của lễ.

Đúng mồng ba Tết chúa Trịnh mới tiếp người ngoại quốc đến dâng tuổi. Dịp tết Canh Tý, Vĩnh thọ năm thứ 3 (1660), phái đoàn Trung Hoa chúc tuổi chúa Trịnh Tạc trước hết theo nghi lễ Trung Hoa, rồi lại lạy chúa theo nghi lễ Việt Nam, phái đoàn Hòa Lan chỉ chào chúc chúa theo nghi thức Hòa Lan…. Còn hai linh mục dòng Tên Onuphre Borgès (Thuỵ Sĩ) và Joseph Tissanier (Pháp) lại lạy hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Tissanier thuật rằng, ngày đó trước vương phủ đông nghẹt người không dễ gì chen chân được. Cũng may hai ông vào được tới một sân lớn để lạy chúa. Các ông cũng mặc áo thụng tím, đội mũ lục lăng, lạy chúa Trịnh Tạc bốn lạy sát đất trước mặt 4.000 người. Khi Tây định vương Trịnh Tạc thấy hai linh mục, ông làm hiệu cho hai vị lạy vương thái hậu (mẹ chúa) đang ngồi cạnh ông. Tức thì Borgès và Tissanier cũng lạy vương thái hậu bốn lần. [17]

Chính ba ngày Tết, nhiều người đều kiêng giữ không quét nhà, có nơi kiêng cả nấu ăn [18]. Tết là dịp nghỉ ngơi, xem ca hát tuồng kịch, đánh bài bạc; cũng vì thế mà nhiều người sạt nghiệp vì Tết.

Nhìn lại một số khía cạnh lịch sử tết nguyên đán thế kỷ XVII, chúng ta thấy ngay được những gì đã biến mất, những gì còn lại ngày nay. Thật ra, tinh thần Tết nguyên đán xưa và nay cũng không khác nhau, nó là dịp long trọng nhất để cấp dưới tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với cấp trên: vua đại diện toàn dân “đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kỳ”, các quan lại tết vua chúa, con cháu tết cha mẹ ông bà, gia đình xum họp lúc giao thừa đón tổ tiên, trò tết thầy v.v… Mối liên hệ chiều ngang trong dịp này bị xẹp xuống, để làm nổi mối liên hệ chiều dọc trong xã hội gia đình, quốc gia, và cả cái “xã hội” nhân thần, hay nói rộng hơn là sự giao hòa giữa người với Trời Đất, tức tam tài Thiên Địa Nhân.

Về hình thức, Tết vẫn là những ngày lễ nghỉ lâu dài, long trọng và vui vẻ nhất trong năm; vì thời đó, ngoài dịp đầu Xuân, thường thường chỉ có lệ nghỉ ngày một và rằm mỗi tháng chứ không nghỉ ngày Chúa nhật như hiện nay. Chúng tôi xin tạm ngừng ở đây mà không muốn đi sâu vào vấn đề ý nghĩa các phong tục rườm rà Tết nguyên đán, hoặc những nguyên nhân xã hội đã thay đổi nhiều hình thức và cơ cấu Tết nguyên đán ngày nay so với giữa thế kỷ XVII.

Chú thích:
[1] “Ceux qui ne trouvent dans leur maison, ni argent, ni habits, en vont chercher ailleurs par des larcins cachez, ou par la force de leurs armes” (J.Tissanier, Relation du voyage… depuis la France jusqu’au Royaume de Tunquin, Paris 1663, tr.265-266).
[2] J.P de Marini, Relation nouvelle et eurieuse des Royaumes de Tunquin et de Lao, Paris 1666, tr.245-246.
[3] Archivum Romanum S.I, JS, 81.f.257v
[4] Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Sài gòn 1972, tr.119-120, 145 - Archivum Romanum S.I, JS, 81.f.257r
[5] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.108-109.
[6] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.94.
[7] Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.109-110.
[8] Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146.
[9] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.251-252.
[10] J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.95
[11] Cai trị Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, An Quảng do quan Trấn thủ; cai trị Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An do quan Đốc trấn; cai trị Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hưng Hóa do quan Lưu thủ.
[12] J.B.Tavernier, sđd, tr.65.
[13] “… đến ngài ba mươy thì đức chúa đi giội gọy là bỏ mọy sự cũ đi mà chịu mọy sự mớy” (coi Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146) - “Le dernier jour de l’an, le Roy (chúa Trịnh Tạc) sort de son Palais auecque son armée, pour s’aller lauer à la riuiere, ou dans quelque maison voisine” (J.Tissanier sđd, tr.266).
[14] A.F.Cardim, Relation… Paris, 1646 tr.59.
[15] J.Tissanier, sđd, tr.260 - J.B.Tavernier, sđd, tr.64.
[16] Dộng là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai.
[17] J.Tissanier, sđd, tr.270-272.
[18] Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.253

(Đỗ Quang Chính, sj.)

(Bài viết của tác giả Lyhong Tuan)

Em nói thật, em không thích Tết lắm đâu!

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Người Việt có thói quen quan tâm tới cuộc sống cá nhân của nhau. Nhưng điều này không phải phù hợp, thậm chí thành khiếm nhã. Tết là dịp điều này thể hiện rõ nhất.

Bao giờ lấy chồng? bao giờ đẻ con?

Khi được hỏi việc chuẩn bị Tết, cô em tôi chép miệng: “Em ngán Tết lắm rồi, chỉ thích bỏ đi chơi đâu xa”

“Sao thế? Dịp xum họp gia đình, gặp gỡ bạn bè mà!”

“Gặp rồi ai cũng hỏi sắp lấy chồng chưa, và sẽ phải trả lời cùng một câu hỏi đó suốt mấy ngày liền, nói đi nói lại. Có năm em định trốn ở nhà, nhưng rồi cũng có khách của bố mẹ đến, cũng phải tiếp, rồi cũng vẫn phải trả lời cùng câu hỏi ấy.”

Nghĩ lại thì tôi thấy khó cho cô em thật. Tết là dịp người Việt ‘tung ra’ vô số câu hỏi khiến người được hỏi bối rối, mặc định rằng đó là hình thức thể hiện sự quan tâm. Chưa chồng hỏi sắp lấy chồng chưa? Chưa đi học hỏi bao giờ đi? Đi làm rồi hỏi làm công ty nào? Lương bao nhiêu: Nếu đối tượng mới cưới thì thể nào cũng hỏi sắp có em bé chưa, rồi chúc cuối năm có em bé... v.v...

Nhìn bề ngoài, những câu hỏi thăm ấy có vẻ vô hại nhưng mang lại cho người bị hỏi áp lực tâm lý và sự khó xử không nhỏ. Cô gái “nhỡ thì” hay đánh mất tình yêu bị xoáy vào nỗi buồn. Người hiếm muộn cười gượng hay cậu trai mới đi làm bối rối về đồng lương khởi nghiệp.

Khổ nỗi, với nhiều người, không hỏi những câu như thế thì họ không biết nói gì khác, hỏi những câu gì khác. Cách thức ấy đã thành thói quen giao tiếp hàng trăm năm của người Việt. Nhưng không phải cái gì tồn tại lâu thì được phép chấp nhận. Cuộc sống thay đổi đòi hỏi văn hoá giao tiếp cũng cần thay đổi, nhanh hay chậm là do ý thức của mỗi chúng ta và quan trọng hơn cả là định hướng giáo dục trẻ em về giao tiếp. Tránh trường hợp vô tình làm người khác khó chịu.

Một lần, trong đám ma bà dì vợ, có một khách đến viếng, chắc chỉ hơn tôi vài tuổi nhận xét: “Sao mày để vợ gầy thế, vậy là không được rồi.” Chưa nói tới cái nội dung thô thiển thì việc mày tao suồng sã lần đầu mới gặp đã đủ khiến tôi khó chịu. Giữa đám tang, tôi đành tặc lưỡi cho qua, bụng thầm nghĩ nếu cứ giữ kiểu giao tiếp ấy, thằng cha này sẽ có lúc ăn đòn ở một cuộc rượu nào đấy. Chưa hết, nhiều người tỏ ra ngạc nhiên, hỏi: “Ơ, vợ anh cao hơn anh à?” Tôi cười bảo: “Ừ, chẳng qua là do chân cô ấy dài, tôi biết làm sao được! Mà hình như luật hôn nhân và gia đình có cấm vợ cao hơn chồng đâu!”

Một kiểu “tra tấn” khác: các ông bà già, thường là ở nông thôn, hay hỏi: “Thế cháu làm được bao nhiêu tiền mỗi tháng?” Hàng xóm của một cô bạn li dị chồng hỏi con gái của cô ấy lúc cháu mới 3 tuổi: “Thế bố cháu có cô nào mới chưa?” Khiến đứa bé khó chịu, đòi về nhà không đi chơi nữa.

.
Tôi đến nhà anh, anh đến nhà tôi

Nhiều năm liền, ông bạn tôi giám đốc một công ty thương mại phải chơi trò “trốn Tết”: mùng Một thăm nội ngoại xong là cả nhà lên máy bay đi nghỉ vì: “Người khoẻ hơn nhiều. Ở Hà Nội, chúc tụng rượu bia suốt mấy ngày chắc chết. Cả năm đã phải uống đủ kiểu với đối tác, bạn hàng rồi”.

Hình thức trong giao tiếp đã chất lên vai người Việt gánh nặng vô hình. Tôi đã đến thăm anh thì mặc nhiên tôi cũng chờ đợi sự viếng thăm của anh. Khách đến là phải mâm bát, cụng ly. Vậy là lê la rồng rắn từ nhà này sang nhà khác, cuối ngày bải hoải, Tết đã thành một cực hình. Khổ nữa uống rượu là phải cạn chén, thế mới đẹp, mới hảo hán, mới chan chứa chân tình.

Chỉ khổ mấy bác sỹ trực mấy ngày tết. Cứ phải mổ não, nẹp chân, nẹp cẳng suốt. Nhà nào xấu số hơn thì cuống lên đi tìm quan tài. Nhu cầu mặt hàng này bỗng tăng vọt.

Mừng tuổi, biếu sếp: sự nhạy cảm khó xử

Thay vì mừng tuổi trẻ em mấy đồng tiền lẻ để lấy may thì phong tục ấy lại biến thành một điều nhạy cảm khó nói. Tập tục mừng tuổi trở thành cách để thể hiện bản thân. Mà trong xã hội, người giàu kẻ nghèo đứng cạnh nhau là thường. Người không có tiền bỗng trở nên ngại ngần khi mừng tuổi con cháu nhà giàu, mừng nhiều thì quá sức, mừng ít thì dường như không phải phép với bạn.

Tôi biết có vợ những đàn ông có chức sắc, cứ Tết đến là phải chầu trực trước ngõ sếp hay đối tác của chồng, chờ khi cổng nhà mở là lao vào đưa quà. Có trường hợp phải chầu trực cả buổi, bởi vị kia quyền cao chức trọng, có quá nhiều người đến biếu quà, chỉ được vợ sếp tiếp. Ra về còn lăn tăn không hiểu phu nhân của sếp có nói lại với sếp không? Nhiều người thế, bà ấy có nhớ mình là ai không? Liệu cái phong bì ấy có bị thất lạc không? Rồi không biết vụ tết này, chồng mình được biếu quà, có bù lại được cái chi phí này không?

Cỗ bàn ngập mặt, nỗi kinh sợ của phụ nữ

Đáng nhẽ ngày xuân, phụ nữ phải được thảnh thơi, váy áo đẹp đi chơi thì họ phải gập lưng xuống dọn nhà, làm cỗ với đủ các món truyền thống, đa phần những món ấy giống nhau đến chán ngấy: gà luộc, miến, măng, thịt đông, bánh chưng… Không làm thì bố mẹ chồng trách con dâu không chu đáo, mà không phải bố mẹ chồng thì ông bà tổ tiên trên bàn thờ có khi cũng không hài lòng.

Vậy, bản chất chung của tất cả những vấn nạn Tết và giải pháp là gì?

Đấy là hệ quả của một nền văn hoá mang nặng hình thức. Tết trở nên rườm rà, nặng nề và là nỗi kinh sợ của người lớn. Chính chúng ta tự làm khổ mình. Điều này cần phải thay đổi để con người Việt Nam được giải phóng khỏi những khổ ải mang tính thói quen văn hoá.

Đừng hỏi hay quan tâm tới những gì mang tính riêng tư của người khác. Đàn ông đừng ngại từ chối uống rượu. Đừng làm hảo hán dưới âm phủ mà nên làm người đàn ông điềm đạm vui thú dài dài với vợ con. Phụ nữ chỉ nấu những món chồng con thích. Mừng tuổi trẻ con bao nhiêu là hoàn toàn theo tình cảm và khả năng của mình.

Việc biếu sếp là khó nhất nhưng không phải không thay đổi được. Hãy đến với ai mình thực sự quý mến chứ không phải vì một sự tính toán hơn thiệt. Làm theo năng lực, đừng mong chờ ân huệ để lót đường cho công danh của mình.


Đoàn Bảo Châu

.

(Bài viết của tác giả Xuân Nguyên)