Mới bảnh làm sao!

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Từ năm 1932 cho đến kết cục đẫm máu vào tháng 5 năm 1934, Bonnie Parker, Clyde Barrow và một băng nhóm luôn thay đổi đồng bọn đã trở thành tiêu điểm dư luận trên khắp cả nước như kết quả một cuộc vui miệt mài của tội phạm giết người đã lan rộng tới trung tâm nước Mĩ. Một cách tự nhiên, một băng nhóm tội phạm lộ liễu như vậy phải phụ thuộc vào công cụ vận chuyển rất mạnh để tránh khỏi nhà chức trách và tòa án với số lượng gây án đáng kể qua các năm, Barrow dường như đã có một sự yếu lòng đối với ô-tô Ford mẫu B động cơ V8. Trên thực tế, cả Bonnie và Clyde đều đã chết trong chiếc ô-tô mà họ ngày càng bị phụ thuộc này, dưới một trận mưa đạn trong lúc họ đang cố lái xe chạy khỏi cảnh sát. Một tháng trước khi chuyện đó xảy ra, Henry Ford đã nhận được bức thư sau đây, được cho là từ chính Barrow. Tính xác thực của nó đã được tranh cãi mãi suốt từ hồi đó.


Tulsa Okla
10th April
Mr. Henry Ford
Detroit Mich.

Thưa ngài: -

Khi tôi vẫn còn hơi thở trong phổi tôi, tôi sẽ nói với ngài ngài đã làm ra một chiếc ô-tô mới bảnh làm sao. Tôi đã chỉ lái độc xe Ford khi tôi phải lái một chiếc để bỏ chạy. Nhờ tốc độ vững vàng và không bị trục trặc Ford đã luôn hạ gục các ô-tô khác và thậm chí nếu công việc của tôi
hasen’tstrickly hợp pháp cái đấy cũng không làm tổn thương enything nếu nói với ngài ngài đã có một chiếc ô-tô tốt như thế nào với V8 -

Chân thành

Clyde Champion Barrow

Giao thông trên bầu trời

7 ý kiến, và ý kiến từ facebook



Có giao thông trên bầu trời
Và nó không như là có gì khá khẩm hơn
Có đám trẻ con đang chơi đùa trên mặt đường
Đang vẽ sóng biển trên mặt đường
Những chiếc bóng của máy bay trên mặt đường
Nó đủ để làm anh khóc
Nhưng thế không như là nó có thể làm nó thấy khá hơn
Có lẽ nó là một giấc mơ và nếu như anh thét lên
Nó sẽ căng phình
Cả nơi này sẽ rơi vỡ thành từng mảnh
Và khi đó họ sẽ nói
"Ôi, làm sao ta có thể từng biết?"
Anh sẽ bảo họ là không quá khó để chỉ ra
"Nếu 4c tiếp tục chất thêm đá
Nước trong giếng sẽ sớm mất đi."

Những thứ nan giải trong lòng đất
Nhưng không ai từng như là đang đào
Thay thế họ ngước nhìn hướng tới các thiên đàng
Với mắt họ đặt vào các thiên đàng
Những chiếc bóng trên con đường tới các thiên đàng
Nó đủ để làm anh khóc
Nhưng thế không như là nó có thể làm nó thấy khá hơn
Những lời giải có thể được tìm ra
Ta có thể biết từ sự đào xuống
Nhưng không ai từng như là đang đào
Thay thế họ sẽ nói
"Ôi, làm sao ta có thể từng biết?"
Anh sẽ bảo họ là không quá khó để chỉ ra
"Nếu 4c tiếp tục chất thêm đá
Nước trong giếng sẽ sớm mất đi."
...


Jack Johnson

Không còn lặp lại

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook


Những đám mây nhòm vào cửa sổ trường học,
Giờ học tưởng như không bao giờ kết thúc.
Nghe thấy, "lông ngỗng" kêu kin kít khẽ khàng
Và những dòng chữ nằm lên trang giấy.

Tình yêu đầu tiên... những năm tháng vang vọng...
Những mảnh băng vỡ trong vũng nước xanh...
Không còn lặp lại, không còn lặp lại,
Không còn lặp lại những chuyện như thế, không bao giờ nữa!
Không còn lặp lại, không còn lặp lại,
Không còn lặp lại những chuyện như thế, không bao giờ nữa!

Cái nhìn không nhận ra từ cặp mắt ngạc nhiên
Và những lời nói, hơi tù mù một chút.
Sau những lời nói đó, lần đầu tiên trong đời
Muốn đảo lộn cả thế giới.

Tình yêu đầu tiên... Tuyết bám trên dây điện.
Trên bầu trời - một vì sao thoáng qua.
Không còn lặp lại, không còn lặp lại,
Không còn lặp lại những chuyện như thế, không bao giờ nữa!
Không còn lặp lại, không còn lặp lại,
Không còn lặp lại những chuyện như thế, không bao giờ nữa!

Bài hát nho nhỏ của trận mưa được dòng suối hát đuổi.
Những cơn gió xanh xào xạc.
Giận ghen vô cớ, cãi cọ không chủ đề
Chúng dường như chỉ vừa mới hôm qua.

Tình yêu đầu tiên... những năm tháng vang vọng...
Những mảnh băng vỡ trong vũng nước xanh...
Không còn lặp lại, không còn lặp lại,
Không còn lặp lại những chuyện như thế, không bao giờ nữa!
Không còn lặp lại, không còn lặp lại,
Không còn lặp lại những chuyện như thế, không bao giờ nữa!

Cá và chim

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook



Họ đã mua một chầu rượu cho người thuỷ thủ
Và anh ta đã kể cho họ một câu chuyện
Về một thế giới mà đã quá cách xa
Và một bài ca họ chưa bao giờ nghe thấy
Một bài ca của con chim nhỏ
Đã ngã vào tình yêu với cá voi.

Chàng đã nói “Nàng không thể sống trong đại dương”
Và nàng đã nói với chàng
“Chàng không bao giờ có thể sống trên trời”
Nhưng đại dương được phủ đầy bằng nước mắt
Và biển trở thành một tấm gương
Có con cá voi trong trăng khi trăng tỏ
Và con chim trên ngọn thuỷ triều.
...


Tom Waits

Nhu nhược

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Một hôm tôi gọi cô Iulia Vasilievna - gia sư của bọn trẻ đến phòng làm việc. Đã đến hạn thanh toán tiền công cho cô ấy.

- Cô ngồi xuống đi, cô Iulia Vasilievna, - tôi nói, - tôi sẽ thanh toán tiền công cho cô. Tôi chắc cô cũng cần tiền, nhưng là một người tự trọng nên chắc cô không tiện hỏi, đúng không? Chúng ta đã thoả thuận với nhau là 30 rúp một tháng nhỉ.

- 40 rúp chứ ạ...

- Không, chỉ 30 rúp thôi. Tôi có ghi vào sổ rồi mà. Bao giờ tôi cũng chỉ trả cho gia sư 30 rúp một tháng thôi. Xem nào, cô đã làm cho chúng tôi hai tháng rồi nhỉ.

- Hai tháng 5 ngày ạ...

- Không chính xác hai tháng. Tôi có ghi đây mà. Vậy là phải trả cho cô 60 rúp... trừ đi 9 ngày chủ nhật... Các chủ nhật cô chỉ đưa thằng Kolia đi dạo thôi mà, có học hành gì đâu... cộng 3 ngày lễ...

Cô Iulia Vasilevna mặt đỏ bừng, tay mân mê gấu áo, nhưng vẫn không nói gì.

- 9 chủ nhật, 3 ngày lễ vị chi là 12 rúp. Thằng Kolia bị ốm mất 4 hôm, không học, cô chỉ trông mỗi con Varia... 3 ngày cô bị đau răng vợ tôi cho cô nghỉ buổi chiều... 12 với 7 là 19. Sáu mươi rúp trừ đi 19 rúp, vậy chỉ còn 41 rúp, đúng không cô?

Mắt trái của cô Iulia đỏ ngầu và ngân ngấn nước mắt, cằm cô run lên bần bật. Nhưng chỉ thấy cô ho và xì mũi, tuyệt nhiên không nói lời nào!

- Đêm giao thừa cô đánh vỡ cái tách uống trà với các đĩa cùng bộ. Tôi sẽ trừ tiền lương của cô đi 2 rúp nữa... Thực ra cái tách ấy đắt hơn kia, vì đó là đồ gia bảo mà, nhưng thôi! Cũng không nên so đo quá với cô. Một lần do cô không cẩn thận đã để thằng Kolia trèo lên cây làm rách mất chiếc áo khoác... Trừ thêm 10 rúp nữa... Rồi cũng vì cô lơ là nên con hầu đã ăn cắp mất đôi giày của con Varia. Cô phải trông nom chúng cẩn thận chứ. Tôi trả lương để cô dạy dỗ và trông chúng nó cơ mà...Vậy trừ tiếp 5 rúp... Hôm mồng 10 tháng giêng cô mượn của tôi 10 rúp...

- Tôi có mượn đâu ạ... - Giọng cô Iulia nghèn nghẹn.

- Tôi đã ghi cả đây mà lị.

- Vâng, thế cũng được ạ.

- Vậy là 41 trừ đi 27 còn lại 14.

Lúc này thì hai mắt cô giáo trẻ đã đầy nước... Trên chiếc mũi thanh, cao của cô đã lấm tấm mồ hôi. Thật tội nghiệp!

- Tôi chỉ vay vợ ông có 3 rúp. - Giọng cô run run. - Đúng có một lần 3 rúp mà thôi.

- Thế à? Vậy mà tôi không hề biết gì cả. Thảo nào trong sổ tôi không thấy ghi. 14 rúp trừ 8 còn 11. Đây, tiền lương của cô đây, cô giáo thân mến ạ! 3 này, 3 này, 8 này, 1 rúp, 1rúp. Xin cô nhận cho?

Và tôi đưa cho cô 11 rúp. Cô nhận lấy chúng bằng những ngón tay run rẩy rồi nhét vào túi.

- Cảm ơn ông. - Cô nói thì thầm.

Tôi đứng dậy và tiến lại phía cô. Một sự tức giận xâm chiếm lấy tôi. Tôi cáu phát điên lên.

- Cô cảm ơn cái gì? - Tôi sẵng giọng.

- Vì ông đã trả lương cho tôi...

- Nhưng cô không thấy là tôi ăn chặn của cô, bóc lột cô hay sao? Cô còn cảm ơn cái nỗi gì?

- Ở những nơi khác người ta còn chẳng trả cho tôi đồng nào kia.

- Không trả ư? Cũng dễ hiểu thôi! Thì tôi cũng vừa đùa cô đấy thôi. Tôi muốn dạy cho cô một bài học. Nhưng xin cô cứ yên tâm, tôi sẽ trả đủ 80 rúp cho cô. Chúng ở trong chiếc phong bì kia kìa, tôi đã chuẩn bị sẵn rồi. Nhưng tôi không hiểu tại sao cô lại có thể nhẫn nhục đến thế? Sao cô không cãi lại tôi? Sao cô cứ ngồi im như thóc thế. Chẳng lẽ có thể nhu nhược đến thế sao?

Cô giáo mỉm cười rầu rĩ và tôi đã đọc được trên mặt cô hai chữ "có thể". Tôi đã xin lỗi cô gia sư vì bài học tàn nhẫn vừa rồi và đưa cho cô cả 80 rúp mà cô đáng được nhận trong sự ngạc nhiên đến tột độ của cô. Cô ngượng nghịu cảm ơn và lui ra. Tôi nhìn theo cô hồi lâu và chợt nghĩ: "Trên đời này làm kẻ mạnh mới dễ làm sao!"

A. P. Tchekhov

Côn trùng và Hoa

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook


Thấy không?

Bông này em không biết là bông gì - nên em chỉ gọi là bông hoa. Con này em cũng không biết là con gì - nên em chỉ gọi là con côn trùng. Một con côn trùng và một bông hoa, đúng như em đã nói.

Nhớ không, em rất giỏi đoán trước mọi thứ! Giỏi thật sự.

Ảnh này dường như chính em ngày mai theo một cách nào đó gửi một thông điệp ngược thời gian tới chính em ngày hôm nay, và nói một cách rành rọt là phải bốt nó lên.

Điềm báo đấy! Sợ không?

Phúc Âm - Chương 4

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

PHÚC ÂM

Chương 4

1 Rồi Chúa Giê-xu đã được Thần Khí đưa vào vùng hoang vu để cho quỷ sứ cám dỗ.
2 Và khi Người đã nhịn ăn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, Người sau đấy đã đói bụng.
3 Và khi quỷ xa-tăng đến chỗ Người, nó đã nói, Nếu mày là Con Trai của Chúa Trời, hãy ra lệnh để những hòn đá này được làm thành bánh mì.
4 Nhưng Người đã trả lời và đã nói, Cái đấy đã được viết, Con Người sẽ không sống chỉ bằng mỗi bánh mì, mà còn bằng mỗi lời nói được nói ra từ miệng của Chúa Trời.
5 Rồi quỷ sứ đưa Người vào thành phố thần thánh, và đặt Người lên một cái tháp nhọn của ngôi đền,
6 Và bảo với Người, Nếu mày là Con Trai của Chúa Trời, hãy quăng mình xuống: vì cái đấy đã được viết, Ông Ấy sẽ giao cho những thiên sứ của mình nhiệm vụ phải quan tâm đến mày: và trong những cánh tay mình họ sẽ đỡ mày lên, và dù là bất kỳ lúc nào mà mày vấp chân mày vào đá.
7 Chúa Giêxu đã nói với nó, Cái Đấy cũng đã được viết, Ngươi sẽ không xúi giục Chúa Trời Chủ Nhân của ngươi.
8 Lại nữa, quỷ sứ lại đưa Người lên trên một đỉnh núi cao vô chừng, và chỉ cho Người xem khắp cả trần gian, và vẻ đẹp huy hoàng của nó;
9 Và nói với Người, Tất cả những thứ này ta sẽ cho mày, nếu mày sẽ sụp xuống và tôn thờ ta.
10 Lúc đó Chúa Giê-xu nói với nó, Ngươi hãy biến đi, Xa-tăng: vì cái đấy đã được viết, Ngươi sẽ tôn sùng Chúa Trời Chủ Nhân của ngươi, và ngươi sẽ chỉ phụng sự ông ấy.
11 Lúc đó quỷ sứ bỏ Người đi, và, hãy nhìn xem, các thiên sứ đã đến và đã chăm lo cho Người.
12 ¶ Lúc này khi Chúa Giê-xu đã nghe là Giôn đã bị ném vào nhà tù, Người đã khởi hành đến Ga-li-lêi;
13 Và bỏ lại Na-da-rét, Người đã đến và ngụ ở Ca-pơ-na-um, một chỗ ở trên bờ biển, ở biên giới giữa Da-bu-lông và Nép-tha-lim:
14 Như vậy đã có thể ứng nghiệm điều đã được nói bởi nhà tiên tri E-xai-át, nói rằng,
15 Đất đai của Da-bu-lông, và đất đai của Nép-tha-lim, men theo bờ biển, vượt quá Gioóc-đan, Ga-li-lêi ở Gien-ti-lét;
16 Những người đang ngồi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng tuyệt vời; và với những người đang ngồi trong miền và bóng của cái chết ánh sáng đã được xuất hiện.
17 ¶ Từ đó Chúa Giê-xu đã bắt đầu thuyết giáo, và nói, Hãy ăn năn: vì thiên đường là ở trong tay.
18 ¶ Và Chúa Giê-xu, đang đi bộ ven biển ở Ga-li-lêi, đã nhìn thấy hai người anh em, Xi-môn gọi là Pi-tơ, và An-đờ-riu em chàng, đang quăng lưới xuống biển: vì họ đã là những người đánh cá.
19 Và Người nói với họ, Hãy đi theo ta, và ta sẽ làm các anh thành những người cứu vớt con người.
20 Và họ ngay tức thì đã bỏ lại những tấm lưới của mình, và đã đi theo Người.
21 Và đi tiếp từ đó, Người đã nhìn thấy hai người anh em khác, Giêmx con trai của Dê-bê-đi, và Giôn em chàng, trên một con tàu cùng với Dê-bê-đi cha họ, đang vá những tấm lưới của họ; và Người đã gọi họ.
22 Và họ ngay lập tức đã bỏ lại con tàu và cha của mình, và đã đi theo Người.
23 ¶ Và Chúa Giê-xu đã đi khắp Ga-li-lêi, dạy dỗ trong những giáo đường Do thái của họ, và thuyết giảng đức tin của Thiên Giới, và chữa trị mọi kiểu đau yếu và mọi kiểu bệnh tật trong dân chúng.
24 Và tiếng tăm của Người đã đi khắp Xi-ri: và người ta đã đem đến cho Người tất cả những người ốm đã bị những bệnh tật và những sự đau đớn khác nhau, và những người đã bị quỷ ám, và những đã bị mất trí, và những người đã bị liệt; và Người đã chữa khỏi cho họ.
25 Và ở đó đã đi theo Người những đám rất đông dân chúng từ Ga-li-lêi, và từ Đê-ca-pô-lít, và từ Giê-lu-xa-lem, và từ Giu-đai-a, và từ tận quá Gioóc-đan.

Thiên tượng (19)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Anh cũng xuýt kêu lên.

“Notting Hill”, “Bản tình ca mùa đông”, “Xác ướp: mộ hoàng đế rồng”… Một loạt tên phim vụt đến trong đầu anh, rồi dừng lại ở “Nhân vật hành động cuối cùng” do Arnold Schwarzenegger thủ vai chính. Cảm giác vừa lạ vừa quen vừa không hiểu là lạ hay là quen nhưng lại rất rõ ràng, là anh vừa chui ra khỏi cái lều là chui ngay vào trong một cái phim.

Trời vẫn xanh, theo nghĩa là nếu nhìn lên mà ở trên đầu không có nóc nhà, không có cây, không có ô dù… thì sẽ nhìn thấy trời, nhưng dưới này, thì làm gì có trời? Trời gì lại trong như nước thế? Và xanh này đâu phải là xanh da trời? Xanh da trời đâu có xanh như màu xa-phia như vậy? Anh chớp chớp mắt, cố nén bồi hồi, để cho suy nghĩ được tuần tự.

Anh đang ở Lũng Sương. Vậy trên đầu bây giờ phải là một lớp sương mù dày đặc, giống như là bầu trời ở đây. Nhưng trời này không có những đám mây, và không có những chỗ “da trời” hở ra. Tất cả trên đầu chỉ toàn một màu xanh xa-phia trong vắt. Ánh sáng là từ phía trên, nhưng không hiểu sao lại có màu xanh ngọc trong veo như vậy? Và chắc là vẫn có những chỗ “ngọc” dày, “ngọc” mỏng, thậm chí rất mỏng, vì thấy có những đám vân quầng quầng nhạt màu hơn, đúng ra phải nói là “trong” hơn thì mới thật chính xác, và có những “điểm” to, bé, không dày, không thưa, không đều, gần như sáng hẳn lên, tựa như những ngôi sao, ban ngày mà vẫn có sao.

Chiếc lều mi-ni màu da cam được dựng trên một khoảng đất mỏng, có cỏ mọc, cũng một lớp mỏng, tươi héo lộn xộn. Lớp đất này giống như một lớp đất đọng lửng lơ trên một mảng lòng chảo dù không phẳng phiu đến mức hoàn hảo nhưng nhẵn nhụi, bằng đá sẫm màu, gần như đen. Lòng chảo đá lõm này bắt đầu một cách dần đều từ vách đá đâu đó tít phía trên kia, theo chiều dọc đã rộng lắm, mà theo chiều ngang thì còn bát ngát vô chừng, nhìn đến hết tầm mắt sang phải, sang trái, mà vẫn không thể hình dung được là nó sẽ kéo dài vòng vòng đến tận đâu. Cô đứng phía trước, cách anh khoảng chục mét; thêm hơn chục mét nữa về phía đấy thì hết bãi đất cỏ; rồi mặt chảo đá còn chạy tít tắp tiếp về phía trước; trên khắp mặt chảo mênh mông này, rải rác còn những bãi đất cỏ đọng khác nữa. Và, điều kỳ lạ nhất bắt đầu từ tít mép chảo đá ở phía đằng đấy.

Đang là mùa Thu. Anh và cô đều mặc quần áo thu. Cả hai tay áo anh còn đều đang xắn cao.

Nhưng trong anh lại lập tức có hai thứ chợt đến cùng một lúc: hai giai điệu, một không lời, một có lời.

“Sòn la si… mì.. là si đố.. fà son la… fà son…”

“Mì” và “si” đều là những nốt giáng - đấy là cái không lời.

“Trong cuộc sống của chúng ta thường có mọi chuyện.
Và dưới mặt trời tuyết không tan,
Và mùa đông ấm áp -
Mưa rơi vào tháng chạp…”

La-ven-đơ, oải hương, những cây phất trần nho nhỏ màu xanh tím ngan ngát, đấy là tên một loài hoa, cũng là tên một bài hát - đấy là cái có lời.

Thực ra thì nhìn về phía trước cũng không thể biết được là lòng chảo đá sẽ kéo dài đến tận đâu, nhưng vẫn xác định được một cái mép rõ ràng: từ chỗ mép đấy trở đi là một thảm tuyết dày mênh mông.

Có thể là do hướng gió, có thể là do cấu trúc không gian sườn núi, lòng chảo, có thể… không biết nữa, cho nên mặc dù tuyết đang rơi đều đều, nhè nhẹ, nhìn thấy, nhưng tuyệt không có một bông tuyết nào rơi lọt vào phía lòng chảo bên này, kể từ chỗ cái mép rõ nét ấy. Còn ở phía bên kia, thảm tuyết trắng cứ kéo dài, thêm một đoạn dài nữa thì trên đấy bắt đầu xuất hiện những thân cây to có tán lá rộng và không rậm rì lắm, tuyết phủ trắng cả, trông như những bó đuốc khổng lồ với ngọn lửa trắng - chính xác hơn phải là trắng xa-phia, cả tuyết cũng trắng xa-phia, cho nên chỗ này trông giống như một khu vườn thủy tinh.

Ngoài chuyện tắm trong ánh sáng xa-phia, thì còn có hai điểm một cách rất tự nhiên đã gây cảm giác trái mắt: thứ nhất là chưa bao giờ anh lại nhìn thấy một thảm tuyết nào mà ở trên đấy lại không hề có một dấu chân, dù là chân người, hay chân chó, giống như thảm này; thứ hai là hình dáng những cái cây bị tuyết phủ đằng kia, nó không giống với tất cả những gì liên quan đến cây bị tuyết phủ ở trong anh. Lúc đầu anh chỉ ngờ ngợ, rồi anh gần như quả quyết: những cái cây kia, dù không phải thông, nhưng vẫn còn nguyên lá.

Anh vừa nghĩ thế thì đã thấy cô đang chạy về phía trước, đến chỗ mép tuyết. Và có cái gì đấy lại tự động bật lên trong thị giác của anh… là một khung hình, quen lắm. Rồi giống như phim có thuyết minh, anh như nghe thấy: “Nếu bây giờ nàng quay lại, và gọi tên mình, thì mình sẽ gắn bó với nàng mãi mãi. Còn nếu bây giờ nàng quay lại, và gọi “Anh ơi”, thì mình sẽ… gắn bó với nàng mãi mãi.” Đúng vào lúc anh đang thấy trong lòng mình nao nao lắm, thì cô đã chạy đến sát bên mép tuyết, và… quay lại.

Đột nhiên anh nghe thấy tiếng mình gọi: “Đứng yên đấy, chờ anh!” Rồi anh thấy mình chạy về phía cô, vừa chạy vừa nói lăng nhăng những gì đó, về tuyết, về cây, về gió, về lòng chảo, về nhiệt độ… Anh cứ nói liên tục như thế cho đến lúc đã đến bên cô. Hình như những biểu hiện đấy của anh làm cô lạ, nhưng cô chỉ tròn đôi mắt đẹp nhìn nhìn, mà không nói gì. Anh vội vàng thở lấy hơi, rồi hỏi:

- Ai, sẽ là người đầu tiên?

- Có lạnh không? - Cô không trả lời, mà hỏi, rồi lại hỏi. - Bên đấy có lạnh không?

Thấy anh chỉ nhún vai, nhìn sang bên đấy, cô vụt quay người, rồi thò chân dẫm lên tuyết.

Anh tưởng cô lại chạy, nhưng cô đứng sựng lại, chân trong chân ngoài. Anh tưởng cô còn đứng tiếp, nhưng cô lại chạy ngay, hai tay dang ra.

Đúng là không có sự thay đổi nhiệt độ, hoàn toàn không cảm thấy một chút nào. Anh còn đang đứng lại trên tuyết, nhoai người thò tay trở lại về phía bên kia, rụt lại, thò qua, nghe ngóng, thì “bụp” phát, đã bị một cục tuyết ném trúng vào vai. Âm thanh lập thể, tiếng cười giòn giã chạy vòng vèo trên mặt tuyết. Anh quay lại, nhìn theo vệt bước chân vòng vèo, phì cười vì tự nhiên nghĩ đến vết chân chó; vừa nghĩ thế thì đã thấy mình cũng bắt đầu chạy, nên lại càng buồn cười hơn, thế là cũng cười thành tiếng.

Cô thẳng căng hai cánh tay, vừa chạy vòng vèo vừa lúc thì sệ cánh bên này, lúc thì sệ cánh bên kia, chắc đang thấy mình giống máy bay. Anh vừa lẩm bẩm: “Máy bay bà già…”, vừa định đuổi theo cô, giống như trong phim, thì một ý nghĩ chợt đến. Anh ngoái cổ, chọn một cái cây, cái gần nhất, rồi cắm cổ chạy đến đấy.

Cây này có tán thấp nhất ở không cao lắm, anh định “chạy đà” đến đấy rồi sẽ cố nhảy lên, để xem nó có còn lá thật không, mặc dù, nhiệt độ như thế này, anh đã gần như xuya là nó vẫn còn lá. Nhưng, càng gần đến, thì anh càng chạy chậm lại. Không phải anh thay đổi ý định, mà tại tuyết cứ sâu dần, sâu dần, còn cách cái cây đến gần chục mét thì tuyết đã ngập quá nửa ống chân. Nên anh đứng lại, vừa thở vừa gọi:

- Linh, Linh ơi, chạy lại đây, mau lên!

Máy bay bà già vẫn lượn rất hăng, tại vẫn chưa lượn vào vùng tuyết sâu, quay lại:

- Gì đấy?

- Xem cây còn lá không!

Lúc cô đến gần, thì anh đã nhìn thấy có lá cây ở trên cao, nhưng anh vẫn bắt chước đặc công, đứng khom khom, chắp hai tay vào nhau, bảo:

- Dẫm chân vào đây, anh bẩy em lên, cố vặt lấy cái lá, xuống xem nó thế nào.

Anh giữ nguyên tư thế như thế, chờ, nhưng thấy cô cứ đứng yên tại chỗ, hai tay vẫn thẳng căng, người vẫn quay qua, quay lại, bên này, bên kia, giống như lúc đang chạy; người quay, thì đầu cũng quay theo, nhưng dù quay, thì mắt vẫn chăm chú nhìn vào mắt anh, cho nên trông rất lúng liếng.

- Gì đấy? - Anh thắc mắc.

- Không gì cả… Anh muốn lấy lá cây xuống xem, thì nghĩ cách khác đi. - Cô tiếp tục đung đưa.

Anh ngoảnh nhìn thân cây, thấy nó to tròn, khó trèo lắm. “Đằng nào cũng đã nhìn thấy lá, biết là nó nguyên cả lá rồi…” anh vừa nghĩ thế, vừa định nghĩ ra một động tác bất cần thật chọc tức, để trêu lại cô, thì hiểu ngay là cái lá là ý muốn mạnh hẳn hơn…

Anh cố giữ vẻ thản nhiên, để không bị nhận ra là có bị tức, đến trước mặt cô, rồi sụp người xuống, để ôm lấy hai cẳng chân, rồi nhấc lên. Nhưng lúc anh vừa chuẩn bị quàng tay ôm lấy hai chân cô thì cô thò ngay tay xuống giữ lấy vai anh, theo phản xạ không kịp nghĩ, anh ngước nhìn lên, anh vừa nhìn lên thì cô đã bỏ ngay tay ra, đứng thẳng người dậy, thành ra…

- Có cần tết nhẫn bằng cỏ nữa không, cô nương? - Anh hỏi, giọng cay cú. - Hay để tại hạ dùng tạm cái chun vòng này?..

Anh đang loay hoay làm bộ thò tay vào túi quần thì cô đã cười giòn tan, rồi dấn lên một chút, ngay vào chỗ vòng tay anh, giọng nói cũng giòn tan:

- Nào, vặt lá đê!

Cái lá to xanh xanh đỏ đỏ, bị bàn tay nhỏ bé mềm mại trắng trẻo thô bạo bóp nát, lúc giở ra trông gần giống như lá phong, nhưng dài hẳn hơn, và có các đầu góc hơi bầu bầu, anh chẳng biết là lá gì, môn này anh dốt, còn cô quả quyết là đấy là lá sồi; rồi cô bảo anh: “Lăn tuyết đê!”, dứt lời thì đã nắm ngay một cục tròn bằng quả cam to, rồi đặt lên mặt tuyết phẳng, và hì hục lăn luôn.

“Yêu hay là không - chúng mình không biết,
Chúng mình đôi khi chơi đùa với tình yêu,
Và khi đánh mất nó,
“Không phải số phận”, - chúng mình nói.”

Vẫn là “La-ven-đơ”, Oải Hương, anh lại nghe thấy nó lúc vừa nhìn cô, vừa nghĩ là lần này mình sẽ lăn một quả cầu tuyết to đến mức kỷ lục, và đang chuẩn bị làm thế, đồng thời, tự nhiên anh cảm thấy rất rõ là mình đang đi đến một quyết định. Ừ, quả cầu tuyết sẽ to đến mức kỷ lục… hai tay anh đã sục vào trong tuyết.

Bất ngờ, một cảm giác ập đến, vừa như giật mình, lại vừa như co cứng. Anh vội đứng phắt ngay dậy, tuyết lả tả rơi xuống từ hai bàn tay.

- Linh! - Chắc thật sự đã có gì đó khác lạ trong giọng nói của anh, vì anh thấy cô gần như đã quay phắt lại ngay. - Mình phải đi nhanh, đi ngay bây giờ, về thu dọn trại thôi em. - Anh thấy giọng mình hình như hơi run.

Chắc không phải chỉ có giọng nói, mà cả mọi biểu hiện ở anh cũng đã có gì đó khác lạ, và dễ nhận ra, nên anh thấy cô không thắc mắc gì, chỉ nhìn anh một cách lo lắng, bỏ lại cục tuyết - đã lớn lên bằng quả bóng đá, rồi đi theo anh.

Lều mi-ni, túi ngủ, quần áo, vật dụng… tất cả được xếp gọn vừa vào một chiếc ba lô to cao. Anh đã xốc nó lên dở chừng, thì mới chợt nhớ ra, lại đặt ngay xuống, rút dây mở miệng cái túi phụ may úp ở trên lưng nó, thò tay vào lần lần móc ra một cái chai nhỏ hình chữ nhật hơi khom khom một chút như cái mai rùa, có mác đỏ đỏ trắng trắng, đưa cho cô bảo: “Vốt-ka, em cố làm mấy ngụm… cần phải thế, mà đừng để say.” Cô ngoan ngoãn làm theo, còn giúi mặt mũi vào khuỷu tay áo, hít sâu mấy hơi, cười, trả chai cho anh; anh ực xong mấy ngụm, cũng hít tay áo, cười theo cô, mặt mũi đã tươi tỉnh hơn, cất chai, xốc chiếc ba lô cao lêu nghêu lên vai, cài cẩn thận hai cái đai to bản, êm êm, quanh hông, rồi bảo cô: “Đi.”

- Bình thường, vườn tuyết sạch khô thế này, em bảo phải bao nhiêu độ? - Anh vừa đi nhanh, vừa cố để ý để không quá sức cô, vừa hỏi.

- Cũng phải… trên dưới âm mười.

- Ừ, âm mười trở lên… à ừ… trở xuống. Mà giờ… - anh vỗ vỗ cánh tay trần - phải trên hai mươi, mà tuyết khô thế…

- Èo… - cô xo vai, mắt sửng sốt, cô đã hiểu anh đang muốn nói gì.

- Cho nên bây giờ phải cố đi nhanh… ra khỏi chỗ này…

- Nhưng anh… em tưởng anh phải biết trước rồi..?

- … - Anh hơi ngẩn ra một tí, rồi mới nhớ ra. - À… dưới này… mỗi lần anh xuống đây, lại thấy một thứ khác nhau. Anh đã định bảo em, nhưng lại nghĩ không kể trước thì hay hơn. Cho nên, anh, với những người mà đã xuống được đây, nếu lại có dịp, vẫn chẳng ai là không muốn xuống tiếp.

- …

- Nhưng anh chưa bao giờ thấy tuyết, cũng chưa bao giờ ý thức là những chuyện bất thường này có thể sẽ… rất nguy hiểm. - Một lát, anh nói thêm. - Mà… anh cũng chưa bao giờ xuống dưới này với… người khác.

- …

- Em cố đi nhanh nhé, nếu mệt quá, thì bảo anh. - Rồi anh hối hả đạp lên lớp tuyết dày, thẳng hướng vào rừng cây phía trước mặt, cô vẫn theo kịp anh.

Anh cứ dẫn cô đi miết, thẳng một đường theo hướng mà sẽ phải cắt ngang qua đáy Lũng Sương, tới “bờ” bên kia. May là cây mọc không dày, nên luôn có thể đi thẳng như vậy. Cây không dày, nhưng tuyết thì lại rơi ngày càng dày đặc, mãi vẫn không có biểu hiện gì là sẽ ngớt, sẽ hết, thậm chí đôi lúc đã xuất hiện cảm giác như mặt tuyết này không phải là hai, mà là ba chiều, và mình càng đi thì càng chui sâu vào tuyết. Anh liếm môi, nhấm nhấm những vụn tuyết không lạnh, cảm giác như vụn bánh mì, trong lòng lo lắng, lo lắm. Anh biết là khi lo lắng, thì cảm giác của mình sẽ bị ảnh hưởng tự ám thị, và nó không còn thật sự chính xác nữa; nhưng anh cũng biết là anh không thể biết được là nó thật sự liệu có bị ảnh hưởng thật không, nếu có, hoặc những lúc có, thì ảnh hưởng như thế nào, bao nhiêu. Cho nên cứ lúc lúc, anh lại bỗng có cảm giác như có một chỗ nào đó ở trong người mình “có vẻ” cứng nhắc, không bình thường, đồng thời anh lại nghĩ đấy là tự ám thị, cũng đồng thời anh lại phân vân không biết liệu đấy có phải tự ám thị hay không. Anh còn băn khoăn - băn khoăn lắm, lúc đầu - là không hiểu sao mình lại bị lo lắng đến như vậy, xưa nay có bao giờ anh “dát chết” thế đâu? Thậm chí anh đã có cảm giác nửa thất vọng nửa cay cú, vì nghĩ rằng con người mình bây giờ sa sút. Nhưng rồi anh hình dung được, là nỗi lo ấy là một thứ mang tính chất gần giống như cộng hưởng: thực ra con người anh vẫn thế, không hề sa sút mảy may, nhưng anh lo cho cô lắm, nên tự động cứ muốn dựa vào cảm giác ở thân thể mình, để cố suy ra những gì có thể đang xảy ra với cô. Nghĩ đến đấy thì anh lại thấy mình vấp phải một nỗi băn khoăn khác hình như lại còn lớn hơn. Có những gì đó lập tức được soát lại rất nhanh trong trí óc, để đến khi xong, thì anh hầu như hiểu là suốt từ trước, anh chưa từng bao giờ có kiểu lo lắng như vậy, đối với bất kỳ ai. Cũng rất có thể là vì chưa từng bao giờ có những hoàn cảnh tương tự, nhưng có vẻ anh cũng không chắc lắm; hay là anh không muốn chắc, cả chuyện này anh cũng không chắc.

Trở lại với nỗi lo về tuyết, anh phải cố để cái đấy không bị biểu hiện ra ngoài. Xong anh lại nghĩ là chắc là cô thể nào cũng vẫn biết hết tất cả, về chuyện trong lòng anh lo lắng, lo lắm, nhưng phải cố để cái đấy không biểu hiện ra ngoài; và đến lượt cô, cô biết như thế, nhưng lại cố để cái đấy không biểu hiện ra ngoài; và anh lại đang biết là cô biết như thế…

Con người anh có lẽ không có những tiềm chất liên quan đến khả năng lo lắng nhiều, cho nên bây giờ cái cảm giác trong lòng ấy rất nhanh chóng đã trở thành một thứ tương đối nặng nề. Bệnh do tâm sinh, anh thấy cái ba lô trên vai cứ nặng dần, những bước chân lội trong tuyết dày dường như bắt đầu có dấu hiệu chuệch choạc. Nên anh lại càng lo lắng thêm.

Đi liên tục đến quá nửa buổi chiều, theo đồng hồ của cô, thì anh thấy những bước chân có vẻ nhẹ đi; cái này thì anh biết là không phải tự ám thị, vì như tâm trạng của anh lúc này, nếu ám thị, thì sẽ phải theo chiều ngược lại. Rõ ràng là tuyết đang mỏng dần. Cô hình như suốt dọc đường tuyết dày cũng đã rất lo lắng, bây giờ cũng có vẻ phấn khởi thấy rõ. Phấn khởi thì họ đi nhanh hơn. Đi thêm khoảng mười lăm, hai mươi phút nữa thì dưới những bước chân bắt đầu lấp ló lá vàng, cỏ vàng, cỏ xanh, và mặt đất.

Nhưng những bước chân vừa thoải mái được một chút, thì lại bắt đầu thấy nặng dần lên.

Mới rồi là nặng một cách vật lý, vì tuyết, và một cách tâm lý, vì lo. Còn bây giờ là nặng một cách vật lý, vì lá. Dường như mùa thu ở đây đến sớm; dường như cây cối ở dưới này mặc dù có tán lá không thật rậm rì nhưng lại đều rất to rộng, cho nên tính tổng ra thì vẫn có rất nhiều lá; dường như cả thế này, cả thế kia; cho nên tuyết vừa mới ngừng rơi thì đã lại thấy lá rơi lia lịa, dẫu rằng chân người đi, dù chúng nó chưa rơi đi nữa, thì cũng đã ngập sẵn trong thảm lá khô đày đặn lắm rồi.

Ở đây đã là mùa thu thực sự.

“Mùa Xuân tình yêu đâm chồi,
Mùa Hạ tình yêu ngát hương,
Mùa Thu mang theo tình yêu về trong mầu mây tím nơi nơi,
Khi Đông về tình yêu cho nắng…”

Nẩy mầm, đơm hoa, hóa hết thành hương bay lên mây, rồi núp ở trên ấy chiếu xuống.

Vậy là sinh ra ở đất, rồi cứ thế bỏ đất mà đi. Có còn quay trở lại nữa không, như là mưa ấy? Nếu không, thì liệu có còn đủ mầm, để mà nẩy mãi, một chiều như thế, được không? Nếu không, thì rồi sẽ hết à? Bao giờ thì hết? Ở những chỗ gần xích đạo, không có Xuân, Hạ, Thu, Đông, chỉ có khô-nóng, và mưa-nóng, thì cũng đơn điệu, ít sắc thái hơn, nhanh đến, nhanh đi hơn à? Nhanh hơn như thế thì rồi sẽ hết trước hay sao? Hay là để đời không có bất công thì lại phải nhiều mầm hơn?

Sinh - Trưởng - Thu - Tàng.

Thiên, Địa, Nhân. Chả có cái gì không nằm trên cái đường cong đối xứng đi lên rồi lại đi xuống và càng ở trên cao thì lại càng dốc hơn ấy cả. Có vẻ như, cái gì ở nửa đường đi lên có, thì cũng có ở nửa đường đi xuống. Nhưng lại không phải vậy. Bởi vì bên thì đang đi lên, bên thì lại đang đi xuống, cho nên trên cả đường này, mỗi điểm đều là duy nhất, chỉ có một lần. Và tâm tư tình cảm con người thì có vẻ như đã được cấu tạo để nhạy cảm nhiều hơn với những điểm đang đi xuống và có độ dốc cao.

Và đàn bà lại khác đàn ông.

Đàn ông thì nhạy cảm nhiều với đàn bà đang đi xuống và có độ dốc cao; quả xanh chấm muối cũng gây nên một số cảm giác tươi tươi, là lạ nhất định, nhưng quả ngon ngọt nhất thì chắc vẫn là quả tự chín trên cây. Và người đàn ông nhạy cảm nhất thì có lẽ không ai khác chính là Niu-tơn vĩ đại.

Còn đàn bà, thì nhạy cảm nhiều với gần như bất kỳ cái gì đang đi xuống và có độ dốc cao. Bản năng gốc nhất của đàn bà là cho ăn cho bú. Đúng lý, thì cái này phải là cần thiết nhất đối với những thứ đang đi lên và có độ dốc thấp, nhưng không hiểu sao nó lại luôn sống dậy nhất với những thứ đang đi xuống và có độ dốc cao. Có lẽ, nhạy cảm là một thứ không mang nặng tính thời điểm, mà mang nặng tính quá trình. Những thứ đang đi lên và có độ dốc thấp thì đuối về khoản này, hoàn toàn không thể so với những thứ đang đi xuống và có độ dốc cao. Thêm nữa, có thể một cách đơn thuần trực quan, thì những thứ có vẻ rơi, sẽ gây cho người ta một phản xạ tự nhiên, là muốn đỡ lấy nó. Hiển nhiên, “sung” mà lại mọc như khoai, thì chả ai “há miệng chờ” cả.

À còn những thứ vừa đi lên vừa có độ dốc cao thì rõ là không gây được nhiều nhạy cảm đối với bản năng cho ăn cho bú, còn những thứ đã đi xuống mà lại còn có độ dốc thấp thì sẽ gây cảm giác là có đỡ thì cũng chả để làm gì. Những cái này thực chất cũng không mấy khó hiểu.

Cho nên nhiều khi đàn bà khóc trong rạp chiếu bóng khiến nhiều người cứ tưởng là phim hay, nhưng thực ra chỉ vì phim chuẩn bị sắp hết. Nhiều khi đàn bà phát biểu rất hăng trong cuộc họp khiến nhiều người cứ tưởng là vấn đề nổi cộm, nhưng thực ra chỉ vì cuộc họp chuẩn bị sắp bế mạc. Nhiều khi đàn bà đậm đà trong quan hệ chồng vợ khiến nhiều người cứ tưởng là gia đình hạnh phúc, nhưng thực ra chỉ vì họ chuẩn bị sắp tiền mãn kinh. Cứ hễ có bất kỳ dấu hiệu nào, thậm chí dấu hiệu mà năm giác quan thường còn chưa thể nhận ra, liên quan đến chuyện đi xuống và có độ dốc cao, là tức khắc, từ trong sâu thẳm tâm hồn của họ, lại có một số cơ chế bí hiểm nào đó được tự động kích hoạt.

Cho nên anh không ngạc nhiên, lúc họ bỗng lọt vào một khoảng trống rộng rãi hình gần như tròn, sau khi len lỏi qua một chặng nhiều cây; khoảng này tuy rộng, nhưng lá vàng rơi vẫn phủ đày đặn, kín mít; thì cô bỗng reo lên, rồi chạy bay ra giữa bãi, đến đấy thì chân chạy lệt bệt rồi ngã lăn ra, lăn đủ số chiều cần thiết rồi thì nằm ngửa thoải mái chân co chân duỗi dang rộng hai tay ra và nhìn lên trời.

Và anh cũng không ngạc nhiên, lúc tự thấy mình y hệt một thằng Hàn quốc sến ngọng, cũng đang lệt bệt kéo lê những cẳng chân trong lá vàng, cởi đai, truột vai, để kệ chiếc ba lô rơi tự bảo trọng xuống dọc đường, rồi lúc sắp đến tâm vòng tròn, gần bên cô, thì một đầu gối cũng bắt đầu khuỵu xuống trên đệm lá êm ái…

Nhưng hóa ra muốn sến cũng không phải dễ.

Vừa quỳ một chân xuống đất, thì cả người anh bỗng khựng lại, bộ dạng lờ phờ chắc đã vụt biến đâu hết sạch, cặp mắt anh chăm chú, mà không nhìn vào đâu cả, hai tai giỏng lên, nghe ngóng.

Có thể là vừa trúng hướng gió, có thể là khi một đầu gối vừa đã cảm giác được điểm tì vững ở trên mặt đất, thì cả thân thể anh: cả những thứ nhìn thấy được, cả những thứ không nhìn thấy được, đều đột ngột tĩnh lại, và trên nền tĩnh lại đấy, thì có những thứ sẽ nổi lên rõ ràng hơn, cho nên anh chợt nghe vẳng bên tai, nhỏ thôi nhưng rõ, chắc không sai được, có tiếng suối chảy, và có tiếng người thút thít.

(Còn nữa)

Bổ đề cơ bản

40 ý kiến, và ý kiến từ facebook

"Chúng tôi ở trong một khu rừng mà những cái cây của nó sẽ không đổ với vài nhát rìu nhỏ e lệ. Chúng tôi phải nâng búa chim và cưa máy lên, và hy vọng cơ bắp của chúng tôi đủ sức dùng chúng."
- Robert Langlands, 1979

Vào năm 1979 nhà toán học Canađa-Mỹ Robert Langlands đã phát triển một lý thuyết nhiều tham vọng và mang tính cách mạng cái đấy đã kết nối hai nhánh của toán học được gọi là lý thuyết số và lý thuyết nhóm. Trong một hệ thống làm lóa mắt với những sự ước đoán và những hiểu biết sâu sắc, lý thuyết đã nắm bắt những đặc tính đối xứng sâu sắc liên kết cùng với các phương trình bao hàm các số nguyên, đặt ra cái mà bây giờ được biết với tên "Chương trình Langlands".

Langlands biết là nhiệm vụ chứng minh những giả thiết làm nền tảng cho lý thuyết của ông sẽ là công việc của nhiều thế hệ. Nhưng ông lại đinh ninh là một điểm đặt chân đầu tiên cần phải được chứng thực - được đặt tên là "Bổ đề cơ bản" - sẽ là không phức tạp lắm. Ông, các cộng tác viên của ông và các sinh viên của ông đã có thể chứng minh các trường hợp đặc biệt của định lý cơ bản này. Nhưng việc chứng minh trường hợp tổng quát đã tỏ ra là khó khăn hơn là Langlands đã tưởng - quá khó, trên thực tế, là đã phải mất 30 năm nó mới được hoàn thành dứt điểm.

Trong vài năm trở lại đây, Ngô Bảo Châu, một nhà toán học Việt nam làm việc tại Université Paris-Sud và Institute for Advanced Study (IAS) ở Princeton, đã trình bày một cách có hệ thống một cách chứng minh khéo léo "Bổ đề cơ bản". Khi nó được thẩm định trong năm nay và được xác nhận là đúng đắn, các nhà toán học trên khắp địa cầu đã thở phào nhẹ nhõm. Công việc của các nhà toán học trong lĩnh vực này trong ba thập kỷ trở lại đây đã được căn cứ trên nguyên tắc là "Bổ đề cơ bản" quả thực là đúng đắn và một ngày nào đó sẽ được chứng minh.

"Cái đấy giống như những người làm việc ở bờ bên kia của dòng sông và chờ đợi một ai đó ném cái cầu này qua," Đào phò, một nhà lý luận số tại IAS, nói. "Và bây giờ tất cả những công việc "phấp phỏng" của mỗi người bất thình lình đã được chứng minh."

Phúc Âm - Chương 3

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

PHÚC ÂM

Chương 3

1 Trong những ngày đấy Giôn Người Rửa Tội đã đến, và thuyết giáo trong vùng hoang vu của Giu-đai-a,
2 Và nói, Hãy ăn năn các người: vì thiên đường là ở trong tay.
3 Việc chàng sẽ ở đây đã được nói bởi nhà tiên tri E-xai-át, nói rằng, Tiếng nói của một người kêu gọi ở chốn hoang vu, Hãy sửa soạn các người con đường của Chúa Trời, hãy làm cho những đường đi của Người được ngay thẳng.
4 Và đã như thế Giôn đã có y phục của chàng dệt bằng lông lạc đà, và một chiếc thắt lưng bằng da quanh thắt lưng chàng; và thức ăn của chàng đã là những con châu chấu và mật ong dại.
5 Rồi cả Giê-lu-xa-lem đã đi ra tới chỗ chàng, và cả Giu-đai-a, và tất cả vùng xung quanh Gioóc-đan,
6 Và đã được chàng rửa tội cho ở Gioóc-đan, xưng tội những tội lỗi của họ.
7 ¶ Nhưng khi chàng thấy có nhiều tín đồ Pha-ri-xi và Sát-đu-xi đến lễ rửa tội của chàng, chàng đã nói với họ, Này thế hệ của những người tráo trở, ai đã cảnh báo các người trốn tránh sự phẫn nộ mà đến đây?
8 Sinh ra vì thế sự tiếp nhận ngọt ngào đối với sự ăn năn:
9 Và hãy suy nghĩ không phải để nói trong thâm tâm mình, Chúng ta có A-bờ-ra-ham là cha của chúng ta: vì ta nói với các người, rằng Chúa Trời là có khả năng từ những hòn đá này tạo nên những đứa con cho A-bờ-ra-ham.
10 Và bây giờ cũng như cái dìu đã được chặt vào gốc cây: vậy thì mỗi cái cây mà không đem đến quả ngọt tốt lành thì bị đốn xuống, và quăng vào ngọn lửa.
11 Ta quả thực rửa tội cho các người bằng dòng nước để ăn năn: nhưng người mà sẽ đến sau ta thì có quyền năng hơn ta, những chiếc giày của người ấy ta không xứng để mang: người ấy sẽ rửa tội cho các người bằng Thánh Thần, và bằng ngọn lửa:
12 Chiếc quạt của nó ở trong tay người ấy, và người ấy sẽ làm sạch sẽ hoàn toàn sân kho của mình, và thu thập lúa mì của mình vào kho thóc; nhưng người ấy sẽ thiêu cháy rơm rác bằng ngọn lửa không dập tắt được.
13 ¶ Rồi Chúa Giê-xu đi từ Ga-li-lêi đến Gioóc-đan tới chỗ Giôn, để được chàng rửa tội.
14 Nhưng Giôn từ chối Người, nói rằng, tôi cần được Người rửa tội, và Người lại đến chỗ tôi?
15 Và Chúa Giê-xu để trả lời đã nói với chàng, Hãy để cho cái đấy là như vậy bây giờ: vì như vậy nó thích hợp với chúng ta để đáp ứng mọi sự công bằng. Lúc đó Giôn đã cho phép Người.
16 Và Chúa Giê-xu, khi Người đã được rửa tội, đã đi lên ngay khỏi dòng nước: và, hãy nhìn kìa, vòm trời đã mở ra tới Người, và Người trông thấy Thần Khí của Chúa Trời sà xuống như một con chim bồ câu, và chiếu sáng ở trên Người:
17 Và hãy nhìn kìa một tiếng nói từ trên trời, nói rằng, Đây là Con Trai yêu quý của ta, người mà ta rất hài lòng.

Bảy lời nguyền rủa

3 ý kiến, và ý kiến từ facebook



Rai-ly già cả đã đánh cắp một con ngựa giống
Nhưng họ đã bắt và mang ông ta lại
Họ đã nhốt ông trên nền đất nhà tù
Với một dây xích sắt vòng quanh cổ.

Con gái của Rai-ly già cả đã nhận được tin báo
Rằng cha cô sắp bị treo lên
Cô đã chạy trong đêm và tới nơi vào buổi sáng
Với vàng và bạc ở trên tay.

Khi quan toà trông thấy con gái của Rai-ly
Đôi mắt già nua của hắn ngập sâu vào trong đầu
Hắn nói, “Vàng sẽ không bao giờ giải thoát cha cô
Cái giá, bé yêu của tôi, là cô thế vào.”

“Ôi, Tao coi như đã chết,” Rai-ly gào khóc
“Chỉ có mày là thứ hắn thèm khát
Và da tao chắc sẽ sởn gai nếu hắn chạm vào mày chút nào
Hãy lên ngựa của mày và biến khỏi đây.”

“Ôi, ba ơi, ba sẽ chết chắc
Nếu như con không thử lấy cơ hội này
Và trả cái giá và không nhận lời khuyên của ba
Vì lẽ đó con sẽ phải ở lại.”

Bóng của giá treo đã đung đưa trong buổi tối
Trong bóng đêm một con chó săn đã sủa
Trong bóng đêm mặt đất đã kêu rên
Trông bóng đêm cái giá đã được trả.

Buổi sáng kế sau cô đã thức dậy
Để nhận ra rằng quan toà đã chưa bao giờ nói
Cô đã thấy thanh treo cổ oằn cong
Cô đã thấy thân thể cha cô gập gãy.

Có bảy lời nguyền rủa vào tên quan toà ác độc
Rằng một bác sĩ không thể cứu hắn
Rằng hai người chữa bệnh không thể chữa cho hắn
Rằng ba con mắt không thể thấy hắn
Rằng bốn cái tai không thể nghe thấy hắn
Rằng năm bức tường không thể che giấu hắn
Rằng sáu người đào đất không thể chôn hắn
Và rằng bảy cái chết sẽ không bao giờ giết hắn.


Bob Dylan

Chỉ dẫn của Stephen về Ngụy Biện

23 ý kiến, và ý kiến từ facebook



* Cách sử dụng Chỉ dẫn
---------------------------------------

Mỗi ngụy biện được mô tả theo định dạng duới đây:

Tên: Đây là cái tên của ngụy biện được chấp nhận chung.
Định nghĩa: Ngụy biện được định nghĩa.
Ví dụ: Những ví dụ về ngụy biện được đưa ra.
Chứng minh: Những bước cần có để chứng minh rằng ngụy biện bị phạm vào.

Các ngụy biện được xếp nhóm thành từng loại gồm bốn đến sáu ngụy biện cho mỗi loại. Sự xếp nhóm này khá tạm thời và chỉ dành cho lợi ích tiện dụng.

Tìm hiểu các Ngụy biện

Cách tốt nhất để tìm hiểu các ngụy biện chỉ đơn giản là khởi sự ngay từ trang đầu tiên và bắt đầu đọc chúng. Sau khi đọc mỗi trang, hãy nhấn vào nút “tới”. Bổ sung cho định nghĩa của chính các ngụy biện, bạn sẽ có thể đọc thông tin nền, ví dụ, và thảo luận về các ngụy biện khác nhau.

Sau khi bạn cảm thấy mình đã nắm vững định nghĩa của một ngụy biện, hãy kiểm tra tri thức của bạn bằng cách tìm lấy một ví dụ và trình nó lên địa chỉ này. Mọi sự đệ trình được xem xét, và nếu ví dụ của bạn tốt, nó sẽ được thêm vào danh mục các ví dụ cho ngụy biện riêng biệt đó.

Sau cùng, hãy tham gia vào các thảo luận. Có một đề mục thảo luận cho mỗi ngụy biện cũng như nhiều phạm vi thảo luận rộng hơn (Nếu bạn không thích lựa chọn, hãy bắt đầu một đề mục thảo luận của riêng mình).

Sử dụng Tri thức của bạn

Trong cuộc sống hàng ngày của mình, bạn sẽ bắt gặp nhiều ví dụ của lý luận ngụy biện. Và nó là vui – và đôi khi còn hữu ích – như khi chỉ ra một lập luận và nói, “Á à, lập luận này phạm vào ngụy biện Song đề giả.”

Nó có lẽ là vui, nhưng nó không thật hữu ích. Nó cũng không thật thấu suốt.

Tên của các ngụy biện là chỉ dành cho mục đích nhận dạng. Chúng không được giả định là được quăng ra như các vũ khí tranh luận. Nó là không đủ để phát ngôn rằng một đối thủ đã phạm vào một ngụy biện như thế lọ thế chai. Và nó không thật tao nhã.

Cái Chỉ dẫn này có ý giúp bạn trong tư duy của riêng bạn, chứ không giúp bạn phá đổ lập luận của ai khác. Khi bạn đang tạo lập các ý tưởng và niềm tin của riêng mình, hãy đánh giá chúng trong ánh sáng của các ngụy biện được mô tả tại đây.

Khi đánh giá các ý tưởng và lập luận được đề xuất tới bạn bởi người khác, hãy ghi tâm rằng bạn cần phải chứng minh lý luận của người ta là ngụy biện. Cái đó là lý do vì sao có một mục “chứng minh” trong sự mô tả mỗi ngụy biện. Mục “chứng minh” có ý định mang đến cho bạn một cơ chế chỉ ra rằng lý luận là sai. Áp dụng phương pháp được mô tả trong mục chứng minh” vào hành lang tranh luận. Xây dựng lập luận của riêng bạn. Dùng lập luận đấy - không phải tên của ngụy biện - để phản hồi.

Logic và Chân lý

Cuối cùng - một quan điểm về logic và chân lý.

Ý tưởng về logic là sự bảo tồn chân lý. Cái đó có nghĩa rằng nếu như bạn bắt đầu với các niềm tin đúng, lý luận của bạn sẽ không dẫn bạn tới các kết luận sai.

Nhưng logic không phát sinh các niềm tin đúng. Không có cách dễ dàng nào để làm điều đó.

Hầu hết người ta dùng những bằng cớ cảm giác của họ để phát sinh các niềm tin đúng. Họ thấy rằng những quả táo mọc trên cây, rằng vài quả chuối màu vàng, v.v…

Với nhiều chân lý khác, chúng ta phải dựa vào đức tin. Như Chúa tồn tại, như lẽ phải tốt hơn lẽ trái, như chân lý là một đức tính: Đấy là các niềm tin mà không thể được xác nhận bởi cảm giác, và theo lẽ đó mà phản ánh một thế giới quan nhất định.

Khi gặp mâu thuẫn giữa các nguyên tắc cơ bản như thế, logic thất bại. Nó không thể chỉ ra rằng một thế giới quan là phải lẽ và thứ khác là trái lẽ. Nếu một người tin vào Chúa, chẳng hạn, logic hầu như không thay đổi được tâm trí người đó, bởi niềm tin đó chính yếu được dựa trên đức tin.

Và hãy nhớ là - hầu hết người ta có các lý lẽ phi logic để tin tưởng những thứ họ làm. Họ có lẽ có các quan điểm chính trị bởi bố mẹ họ đã có chúng, họ có lẽ có cái nhìn nặng tính chất công việc bởi họ e sợ bị sa thải, họ có lẽ nghĩ một bộ phim là tốt bởi tất cả bạn bè họ nghĩ thế.

Các cái đấy cũng xem như các thành phần trong thế giới quan của một người. Không có lý do để bạn giữ các niềm tin đấy, bởi bạn không lệ thuộc vào cùng các yếu tố phi logic đấy. Nhưng bạn nên biết rằng chỉ lý lẽ không thôi sẽ không đủ khiến người ta thay đổi tâm trí của mình.

Do đó hãy lý luận cùng với sự thận trọng, và nếu như bạn thật sự muốn thuyết phục ai tin vào điều gì đó, hãy nhớ rằng lòng trắc ẩn, tính chân thành và sự tế nhị cũng quan trọng như là logic.

Chúc bạn yêu thích cái Chỉ dẫn này.




Van-ka

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Van-ka Giu-kốp là một cậu bé chín tuổi, trước đây ba tháng đã được gửi đến nhà ông thợ giày A-li-a-khin để học việc, vào đêm lễ Giáng sinh cậu không nằm ngủ. Đợi đến lúc ông bà chủ nhà và mấy người thợ phụ đi lễ nhà thờ sáng sớm, cậu bé lấy từ trong tủ của ông chủ một lọ mực nhỏ, cây bút với chiếc ngòi đã gỉ, để một tờ giấy nhầu nát ra trước mặt rồi bắt đầu viết.

Trước khi đặt bút viết chữ đầu tiên, mấy lần cậu sợ sệt đưa mắt nhìn ra cửa ra vào và cửa sổ, liếc nhìn bức ảnh thánh tối sẫm treo giữa hai dãy giá gỗ xếp đầy những bộ khuôn đóng giày, rồi thở dài đứt đoạn.

Cậu đặt tờ giấy lên chiếc ghế băng và quỳ xuống bên ghế. "Ông Kôn-xtan-chin Ma-ka-rứts thân yêu!" - Cậu viết. - "Cháu viết thư cho ông đây. Cháu chúc mừng ông nhân dịp lễ Giáng sinh và chúc ông được Thượng đế ban cho nhiều may mắn. Cháu chẳng còn bố còn mẹ, cháu chỉ còn có một mình ông thôi".

Van-ka đưa mắt nhìn ra cửa sổ tối sẫm thấp thoáng phản chiếu bóng cây nến của cậu, và xúc động tưởng tượng ra người ông của mình, đang làm người gác cổng ban đêm cho nhà chủ Giư-va-rép. Ông cụ nhỏ nhắn, gầy gò, nhưng khôn ngoan, nhanh nhẹn khác thường, tuổi chừng sáu mươi lăm, vẻ mặt lúc nào cũng như đang cười và đôi mắt thì ngà ngà say. Ban ngày cụ ngủ trong bếp của đám người hầu hạ hay tán chuyện tầm phào với mấy bà đầu bếp, đến đêm thì cụ khoác tấm áo lông cừu thô rộng đi vòng quanh trang trại và gõ cái mõ của mình. Cúi đầu đi theo sau cụ là con chó già Ka-xtan-ka và con chó Chạch - gọi như thế là vì con Chạch có bộ lông màu đen và thân hình dài ngoẵng như một chú chồn. Con chó Chạch lúc nào cũng tỏ ra hết sức hiền lành và kính nể mọi người, với người thân hay người lạ nó cũng đều nhìn bằng đôi mắt quấn quít xun xoe, nhưng nó vẫn không được ai tin cậy. Đằng sau cái vẻ hiền lành, lễ phép ấy là một sự tinh ranh tráo trở. Không một con chó nào biết thạo hơn nó cách lẻn ra đằng sau và đớp nhanh vào chân, ăn vụng thức ăn để trong hầm chứa hay bắt trộm gà của dân làng. Người ta đã nhiều lần đánh què hai chân sau, vài lần treo nó lên, tuần nào cũng đả cho nó một trận nhừ tử, nhưng lần nào nó cũng sống lại. Bây giờ chắc ông đang đứng ở cổng, nheo mắt nhìn những khung cửa sổ sáng đỏ của ngôi nhà thờ làng, rồi vừa đập đập đôi ủng dạ vào nhau vừa tán gẫu với đám đầy tớ. Cái mõ ông đeo bên thắt lưng. Ông vỗ vỗ tay, người co ro lại vì lạnh, rồi vừa cười hì hì theo lối cười của người già vừa véo bà hầu phòng, bà đầu bếp. - Này, ngửi tý thuốc hút chứ? - ông cụ vừa nói vừa đưa hộp thuốc của mình cho hai bà đó. Hai bà ngồi ngửi rồi hắt hơi. Ông cụ thích chí không thể tả được, khoái trá cười vang và kêu lên:

- Thuốc này tốt lắm đấy!

Họ cho cả chó ngửi thuốc lá nữa. Con Ka-xtan-ka hắt hơi, ngoay ngoáy đầu rồi giận dỗi bỏ sang một bên. Con Chạch vì nể không hắt hơi mà chỉ ngoáy ngoáy cái đuôi. Thời tiết thì thật là đẹp. Không khí thật êm dịu, trong lành và tươi mát. Màn đêm sâm sẫm tối, nhưng vẫn nhìn rõ cả xóm làng với những mái nhà màu trắng và làn khói nhè nhẹ bay lên, những hàng cây phủ một lớp tuyết trắng và những đống tuyết. Khắp bầu trời chi chít những vì sao vui nhấp nháy, và dòng sông Ngân hiện ra lồ lộ như trước ngày lễ có ai đã rửa sạch và trải lên đầy tuyết trắng... Van-ka thở dài, chấm bút vào lọ mực rồi viết tiếp:

"Ngày hôm qua cháu bị đánh một trận đau lắm ông ạ. Ông chủ nắm tóc cháu lôi ra ngoài sân rồi lấy dây da đánh cháu tới tấp vì tội cháu đưa nôi cho con ông chủ ngủ mà cháu trót ngủ quên đi mất. Tuần vừa rồi bà chủ sai cháu mổ con cá mòi, cháu lại bắt đầu làm từ đuôi, thế là bà ta cầm cả con cá mòi mà quật vào mặt cháu. Mấy người thợ học việc toàn trêu cười cháu, bảo cháu ra ngoài quán mua rượu vốt-ka, lại còn bắt cháu lấy trộm dưa chuột của ông bà chủ, thế là ông chủ vớ được cái gì liền quật cháu tới tấp. Ăn thì chẳng có gì. Buổi sáng ông bà chủ cho cháu một miếng bánh mì, buổi trưa cho cháu bát cháo, đến tối lại một mẩu bánh, còn có bao nhiêu canh bắp cải hay nước chè thì ông bà chủ ngốn hết, ông ạ. Ông bà chủ bắt cháu nằm ngoài hành lang, khi con người ta khóc thì cháu chẳng được ngủ tý nào mà cứ phải đưa nôi suốt. Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang cháu về nhà ông, về làng, cháu chẳng chịu được nữa...Cháu van lạy ông, cháu cầu Thượng đế suốt ngày đêm, để ông đến mang cháu đi khỏi nơi này, không cháu có thể chết mất."

Mồm Van-ka méo xệch, cậu đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc. "Cháu sẽ tán nhỏ thuốc lá cho ông," - cậu viết tiếp, - "có trời chứng giám, nếu có gì thì ông cứ đánh cháu cật lực, còn nếu ông nghĩ là không có việc gì cho cháu làm thì cháu sẽ cố xin đánh giầy cho ông quản gia hay là đi chăn bò thế chỗ thằng Phết-ka. Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ có nước là chết nữa thôi. Cháu đã định chạy trốn về làng, nhưng mà không có giầy, cháu sợ trời rét quá. Còn khi nào cháu lớn lên rồi, cháu sẽ trả ơn ông mà nuôi ông, cháu không cho đứa nào làm nhục ông, khi ông chết, cháu sẽ cầu nguyện cho linh hồn ông được yên nghỉ như cháu đã cầu cho mẹ Pê-la-gây-a. Còn Mát-xcơ-va là thành phố to lắm ông ạ. Mọi nhà đều là của các ông chủ và ngựa cũng rất nhiều, còn cừu thì không có và chó thì càng không dữ đâu. Trẻ con ở đây không đi chơi thăm các nhà để ngâm thơ đạo Ki-tô vào ngày lễ Giáng sinh và không ai cho đứng trên bục cao trong nhà thờ mà hát đâu, có lần cháu thấy ở hiệu tạp hóa trên cửa sổ có treo bán lưỡi câu có liền cả dây, cá gì cũng câu được, tốt lắm, ông ạ, lại còn có một cái lưỡi câu được cá nheo nặng một pút [*] ấy. Cháu còn thấy có những hiệu bán những khẩu súng giống như súng các ông chủ vẫn đeo ấy, đến hàng trăm rúp một khẩu, ông ạ... Ở các hiệu bán thịt đầy thịt gà rừng này, gà lôi này, thịt thỏ này, nhưng bắn được ở đâu thì mấy người bán chẳng nói. Ông thân yêu, bao giờ ông chủ cho dựng cây thông treo những gói quà nhỏ thì ông lấy cho cháu một hạt dẻ màu vàng nhé, ông giấu vào cái rương màu xanh ấy ông cứ xin tiểu thư Ôn-ga I-gơ-na-tiép-na ấy, ông bảo là xin cho cháu."

Van-ka run rẩy thở dài và lại nhìn chăm chăm ra cửa sổ. Cậu nhớ lại lần nào vào rừng lấy cây thông cho nhà chủ, ông đều đi và dắt cậu đi theo. Lúc ấy thật là vui vẻ! Mỗi lần trước khi đẵn cây thông, ông hút một tẩu thuốc, ngửi ngửi thuốc hít rất lâu, và trêu cười cậu bé Van-ka đang bị rét cóng... Những cây thông non phủ một lớp tuyết mỏng đứng yên và chờ xem cây nào bị chặt. Không biết từ đâu ra, một con thỏ chạy vụt qua mấy đống tuyết... Thế nào ông cũng kêu lên:

- Bắt lấy, bắt lấy... bắt lấy? Chà, đồ quỷ cộc đuôi!

Chặt được cây thông rồi ông đem về nhà chủ, và ở đây người ta bắt đầu trang điểm cho nó... Tiểu thư Ôn-ga I-gơ-na-tiép-na mà Van-ka rất mến, là người bận rộn nhiều nhất. Hồi mẹ Pê-la-gây-a của Van-ka còn sống, làm hầu phòng cho bà chủ, Ôn-ga I-gơ-na-tiép-na đã cho Van-ka ăn kẹo và vì không có việc gì làm nên đã dạy cho cậu ta biết đọc, biết viết, đếm đến 100, thậm chí còn giảng dạy điệu Quadrille nữa. Sau khi mẹ Pê-la-gây-a chết đi, người ta cho cậu bé mồ côi Van-ka vào làm ở nhà bếp của những người hầu cùng chỗ ông, rồi từ đấy lại gửi lên Mát-xcơ-va ở với ông thợ giầy A-li-a-khin...

"Ông thân yêu, ông lên đây đi," - Van-ka viết tiếp. - "Cháu xin ông làm ơn làm phúc đem cháu đi khỏi đây. Ông thương lấy cháu mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn no lắm, cháu buồn lắm, không nói được gì, cứ khóc thôi. Hôm vừa rồi, ông chủ lại lấy cái khuôn khâu giầy đập vào đầu cháu, cháu ngã xuống mãi lâu sau mới tỉnh. Đời cháu khổ quá, khổ hơn cả con chó, ông ạ... Cho cháu gửi lời thăm A-lê-na, bác Ê-go chột mắt và bác đánh xe, còn cái phong cầm của cháu ông đừng đưa cho ai nhé. Cháu của ông mãi mãi, Van-ka Giu-kốp, ông thân yêu ông lên đây đón cháu nhé".

Van-ka gấp lá thư làm tư rồi bỏ vào cái phong bì mua một kô-pếch ngày hôm trước... Nghĩ ngợi một lúc rồi cậu lại chấm mực và viết địa chỉ:

Gửi ông ở nhà quê.

Sau đó cậu gãi gãi đầu nghĩ rồi viết thêm: "Ông Kôn-xtan-chin Ma-ka-rứts". Lấy làm thích thú vì không bị ai làm ngăn trở viết thư, cậu chụp mũ lên đầu và không kịp khoác lên mình chiếc áo bành tô, cứ mặc mỗi chiếc áo sơ mi mà chạy ra ngoài phố. Hôm trước khi cậu hỏi, mấy người ngồi bán thịt đã nói với cậu là thư từ thì bỏ vào những hộp thư, rồi từ đấy người ta lấy ra đem đi khắp nước trên những cỗ xe tam mã có chuông rung do mấy gã đánh xe say rượu điều khiển. Van-ka chạy đến chỗ treo hộp thư gần nhất rồi bỏ bức thư quý báu qua khe... Mơ theo những hi vọng ngọt ngào, một giờ sau cậu đã ngủ thiếp đi... Cậu nằm mê thấy cái bếp lò, ông ngồi trên bệ bếp, đôi chân trần buông thõng, và đọc thư cho mấy bà đầu bếp nghe... Con Chạch quẩn quanh bên cạnh và ve vẩy cái đuôi.

A. P. Tchekhov

[*] pút - Đơn vị trọng lượng Nga tương đương 16,3 kilôgam.

Hòn đảo của bác sĩ Moreau (33)

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Buổi sáng vẫn còn như đang chết. Không một tiếng thì thầm của gió đã bị khuấy động; biển như thủy tinh được đánh bóng, bầu trời trống không, bãi biển hoang vắng. Trong trạng thái nửa kích động, nửa phát sốt của tôi, sự tĩnh mịch này của mọi thứ đã đè nặng lên tôi. Tôi đã cố huýt gió, và giai điệu xỉu đi. Tôi lại chửi thề, - lần thứ hai vào buổi sáng đấy. Rồi tôi đã đi tới góc khu vực hàng rào và nhìn chằm chằm về phía bụi rậm màu xanh lá cây cái đấy đã nuốt chửng Moreau và Montgomery. Lúc nào họ sẽ trở lại, và như thế nào? Lúc đó xa xa ra lên bãi biển một Người-Thú nhỏ nhắn màu xám đã xuất hiện, chạy xuống tới mép của nước và bắt đầu té nước xung quanh. Tôi đi dạo lại tới khung cửa, rồi tới góc một lần nữa, và như vậy đã bắt đầu đi tới đi lui như một người lính gác đang làm nhiệm vụ. Một lần tôi đã khựng lại vì giọng nói từ đằng xa của Montgomery oang oang, Coo-ee-Moreau!" Cánh tay tôi đã thành ít đau hơn, nhưng rất nóng. Tôi đã bị hơi phát sốt và khát. Bóng tôi đã trở nên ngắn hơn. Tôi theo dõi hình dáng ở đằng xa đến khi cái đấy đã đi ra xa một lần nữa. Moreau và Montgomery sẽ không bao giờ trở lại? Ba con chim biển đã bắt đầu đánh nhau vì báu vật đã mắc cạn nào đó.

Rồi từ phía xa ở đằng sau khu hàng rào tôi đã nghe một cái phát súng lục. Một sự im lặng dài, và rồi lại một phát nữa. Rồi một tiếng hét kêu la gần hơn, và lại một khe hở im lặng ảm đạm nữa. Trí tưởng tượng bất hạnh của tôi được bố trí làm việc để giằn vặt tôi. Rồi bất ngờ một phát súng nổ ngay bên cạnh. Tôi đi tới góc, giật mình, và trông thấy Montgomery, - gương mặt anh ấy đỏ tươi, tóc rối bù, và những đầu gối quần bị rách. Khuôn mặt của anh ấy đã biểu lộ một sự thất kinh sâu sắc. Ở đằng sau anh ấy một Người-Thú vai thõng xuống, M'ling, và xung quanh những quai hàm của M'ling đã là những vết bẩn tối sẫm kỳ quặc nào đó.

"Ông ta về chưa?" Montgomery nói.

"Moreau á?" tôi nói. "Chưa."

"Chúa của tôi ơi!" người này hổn ha hổn hển, hầu như nức nở. "Quay vào trong," anh ấy nói, cầm tay tôi. "Chúng bị điên. Tất cả bọn chúng sắp điên hết cả. Cái gì có thể đã xảy ra? Tôi không biết. Tôi sẽ kể với anh, lúc tôi có thể thở được. Rượu bờ-ran-đi đâu rồi?"

Montgomery đi khập khiễng ở phía trước tôi vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế tựa dài. M'ling đã ném mình xuống ngay bên ngoài khung cửa và bắt đầu thở hổn hển như một con chó. Tôi đã kiếm được cho Montgomery rượu bờ-ran-đi và một ít nước. Anh ấy đã ngồi nhìn chằm chằm vào khoảng không trước mặt, lấy lại hơi thở của mình. Sau vài phút anh ấy đã bắt đầu kể với tôi cái đã xảy ra.

Anh ấy đã đi theo dấu vết của họ theo lối nào đó. Nó đã là đủ thẳng thớm lúc đầu nhờ có những bụi rậm bị bẹp và bị làm gãy, những mảnh vụn trắng đã bị rách ra từ những tấm vải băng của báo sư tử, và những vệt máu bẩn không thường xuyên trên những chiếc lá của những cây bụi và tầng cây thấp. Anh ấy đã đánh mất dấu vết, dù bằng cách nào, trên nền bằng đá tận bên kia dòng chảy ở đâu tôi đã thấy Người-Thú uống nước, và đã đi lăng nhăng không mục đích về hướng tây vừa đi vừa hét gọi tên của Moreau. Rồi M'ling đã đến chỗ anh ấy mang theo một cái rìu nhỏ sáng choang. M'ling đã không biết gì về việc báo sư tử; đang chặt cây, và nghe thấy anh ấy gọi. Họ đã đi tiếp và hét gọi cùng nhau. Hai Người-Thú đã đến núp và săm soi họ qua tầng cây thấp, cùng với những điệu bộ và một dáng đi lén lút cái đấy đã báo động Montgomery vì sự kỳ quặc của chúng. Anh ấy đã réo gọi chúng, và chúng đã bỏ chạy với vẻ có lỗi. Anh ấy đã dừng hét gọi sau chuyện này, và sau khi đi lăng nhăng một hồi ra xa hơn theo một lối vô định, đã quyết định đến thăm những túp lều.

Anh ấy đã thấy hẻm núi bị bỏ không.

Mỗi phút càng trở nên lo ngại hơn, anh ấy đã bắt đầu lần trở lại những bước chân của anh ấy. Rồi việc đã là anh ấy đã bắt gặp hai Người-Lợn mà tôi đã nhìn thấy đang khiêu vũ vào đêm tôi đến đây; chúng đã bị nhuốm máu ở quanh miệng, và một cách dữ dội đã bị kích động. Chúng vừa đi vừa dẫm đạp lên những cây dương xỉ, và đã dừng lại cùng với những bộ mặt dữ tợn khi chúng nhìn thấy anh ấy. Anh ấy đã quất đen đét roi của anh ấy trong một sự náo động nào đó, và tức khắc chúng đã xông vào anh ấy. Chưa bao giờ trước đây có một Người-Thú đã dám làm việc đấy. Một đứa anh ấy đã bắn xuyên đầu; M'ling đã ném mình lên đứa kia, và cả hai vừa lăn vừa vật lộn. M'ling đã đè được con vật xuống dưới cùng với những chiếc răng của chàng ta trong cổ họng của nó, và Montgomery cũng đã bắn nó lúc nó vật lộn trong sự nắm chặt của M'ling. Anh ấy đã gặp khó khăn nào đó trong việc xui khiến M'ling để đi tiếp cùng với anh ấy. Từ chỗ đó họ đã vội vàng trở lại chỗ tôi. Trên đường đi, M'ling bất ngờ đã xông vào một bụi cây và đã lùa ra một Người-Mèo-Rừng, cũng nhuốm máu, và bị què vì một vết thương ở chân. Thú vật này đã chạy theo một lối nhỏ và sau đấy đã quay ngoắt lại lúc bị cùng đường, và Montgomery - với một chút đùa giỡn, tôi nghĩ - đã bắn nó.

"Tất cả cái đó có nghĩa gì?" tôi nói.

Anh ấy đã lắc đầu, và đã quay lại một lần nữa tới rượu bờ-ran-đi.

(to be cont.)

Con nhện vàng bé nhỏ

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook



Một, hai, ba, bốn...

Con nhện vàng bé nhỏ đang cười nhạo tuyết
Có lẽ con nhện đó biết điều gì anh không biết
Bởi anh lạnh chết ch.!

Con khỉ trắng bé nhỏ nhìn chằm chằm vào cát
Có lẽ con khỉ đó đoán ra điều gì anh không thể hiểu
Ai biết?

Ồ, anh đã bắt gặp con cua nhảy múa, và anh đã dừng lại xem nó lắc mình
Anh đã bảo "Hãy nhảy cho tao thêm một lần nữa
Trước khi mày ngủ đông và thành như cái bánh thịt cua".

Và này đây, con rùa "đớp" bé nhỏ đang đớp một vỏ quả
Có những sự bí ẩn bên trong, anh biết
Nhưng chúng là gì anh thực không thể nói chắc chắn.

Và này, con quạ nhỏ bé bỏng, mày đang có vẻ khá tệ
Tao nghĩ tao phải lánh đi trước khi mày bắt đầu nổi cáu
Chắc chắn rồi!

Và này, con lợn nhỏ gợi tình, mày đã ngủ với một con đực
Và giờ mày đã có đứa trẻ nhỏ với những cái chân
Thay vì những cái tay.

Và ôi chao, có mọi loài động vật...

Và này, con chim nhại bé nhỏ, họ hát về mày trong những bài ca
Mày từng ở đâu? Mày có từng làm gãy một bên cánh?
Tao đã không nghe thấy mày từ rất lâu.

Và này, con hải âu nhỏ bé đang bơi trong không trung
Hãy tới đây, mày biết tao không thể bay
Và tao nghĩ chúng ta thực sự phải chơi cho đẹp.

Và này, quý cô mực ống hạnh phúc, cô di chuyển thật phiêu diêu
Bằng vũ điệu ma quái của mình cô thôi miên mọi động vật trong biển cả
Chắc chắn rồi!

Và ôi chao, có mọi loài động vật...

Và này, ông Mặt Trời Buổi Sáng, ông là loại tạo vật nào?
Tôi không thể nhìn rõ, nhưng tôi biết ông ở đấy
Mẹ kiếp, tôi mong mình được biết

Và này, cô Mặt Trăng Đáng Yêu, cô lẻ loi và cô có màu xanh
Khá lạ kỳ cái cách cô đổi thay
Nhưng thật ra tất cả chúng ta đều như thế.


Devendra Banhart



Phúc Âm - Chương 2

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook

PHÚC ÂM

Chương 2

1
Trong khi Chúa Giê-xu ra đời ở Bét-thờ-lê-hem thuộc Giu-đai-a trong thời gian trị vì của vua Hê-rốt, hãy nhìn xem, đã có các nhà thông thái từ phương đông đi đến Giê-lu-xa-lem,
2 Và nói, Người mà sinh ra để làm Vua của người Do Thái đang ở đâu? vì chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của người ấy ở phương đông, và đến để suy tôn người ấy.
3 Khi vua Hê-rốt đã nghe thấy những điều này, ông ấy đã lo lắng, và cả Giê-lu-xa-lem cùng lo lắng với ông ấy.
4 Và khi ông ấy đã tập hợp tất cả những thày tế đứng đầu và những người Do Thái hiểu biết lại, ông ấy đã đòi hỏi họ phải xem xem Đấng Ki-tô sẽ phải ra đời ở đâu.
5 Và họ đã nói với ông ấy, ở Bét-thờ-lê-hem thuộc Giu-đai-a: vì như thế cái đấy đã được viết bởi nhà tiên tri,
6 Và ngươi Bét-thờ-lê-ham, trên đất đai của Giu-đa, tài nghệ không còn chút nào nữa với những ông hoàng của Giu-đa: vì từ phía ngoài ngươi một Người Cai Quản sẽ đến, người ấy sẽ trị vì những người Ít-xra-en của ta.
7 Rồi Hê-rốt, khi ông ấy đã bí mật gọi các nhà thông thái, đã thẩm tra họ một cách sốt sắng xem ngôi sao đã xuất hiện lúc nào.
8 Và ông ấy đã gửi họ tới Bét-thờ-lê-ham, và đã nói, Hãy đi và tìm cho được đứa bé con; và khi các người đã tìm thấy nó, hãy lại báo cho ta biết, để ta có thể đến và cùng tôn thờ nó.
9 Khi họ nghe lời nhà vua, họ đã khởi hành; và, hãy nhìn kìa, ngôi sao, ngôi sao mà họ đã thấy ở phương đông, đã đi phía trước họ, cho đến khi nó đến và đứng ở phía trên chỗ mà đứa bé đang ở đấy.
10 Khi họ nhìn thấy ngôi sao, họ đã hoan hỉ với một niềm vui sướng trên cả tuyệt vời.
11 ¶ Và khi họ bước vào trong căn nhà, họ đã thấy đứa bé cùng với Ma-ria mẹ nó, và đã sụp xuống, và suy tôn nó: và khi họ mở những báu vật của mình, họ đã dâng lên nó những tặng phẩm; vàng, và hương trầm, và nhựa thơm.
12 Và đã được Chúa Trời báo cho biết trong một giấc mơ là họ không được trở lại chỗ Hê-rốt, họ đã ra đi trở về xứ sở của mình theo một con đường khác.
13 Và khi họ ra đi, hãy nhìn xem, thiên sứ của Chúa Trời lại hiện ra với Giô-xép trong giấc mơ, và nói, Dậy đi, và hãy mang theo đứa bé và mẹ của nó, và hãy bỏ chạy tới Ai-cập, và ngươi hãy ở lại đó cho đến khi ta đến nói với ngươi: vì Hê-rốt sẽ tìm đứa bé để tiêu diệt nó.
14 Khi chàng trở dậy, chàng đã mang theo đứa bé và mẹ nó trong đêm, và đã ra đi đến Ai-cập:
15 Và đã ở lại đó cho đến khi Hê-rốt chết: như vậy đã có thể ứng nghiệm điều mà Chúa Trời đã nói thông qua nhà tiên tri, nói rằng, ta đã gọi con trai của ta Bên Ngoài Ai-cập.
16 ¶ Rồi Hê-rốt, khi ông ấy đã thấy là ông ấy bị nhạo báng bởi các nhà thông thái, đã tức giận tột bậc, và đã ra lệnh, và đã giết chết tất cả những đứa trẻ ở Bét-thờ-lê-ham, và trên tất cả những bờ biển của nó, từ hai tuổi và nhỏ hơn, dựa theo thời gian mà ông ấy một cách sốt sắng đã điều tra từ các nhà thông thái.
17 Như vậy đã ứng nghiệm điều đã được nói bởi nhà tiên tri Giê-rê-mi, nói rằng,
18 Ở Ra-ma đã nghe thấy một tiếng nói, tiếng than vãn, và tiếng khóc lóc, và sự tiếc thương to lớn, Ra-chen nhỏ nước mắt vì những đứa trẻ của nàng, và sẽ không được dỗ dành, vì họ không còn.
19 ¶ Nhưng khi Hê-rốt đã chết, hãy nhìn xem, một thiên sứ của Chúa Trời hiện ra với Giô-xép trong một giấc mơ ở Ai-cập,
20 Và nói, Dậy đi, và hãy mang theo đứa bé và mẹ của nó, và hãy đi vào đất đai của Ít-xra-en: vì họ chết là để tìm sự sống của đứa bé.
21 Và chàng đã dậy, và đã mang theo đứa bé và mẹ của nó, và đã đi tới đất đai của Ít-xra-en.
22 Nhưng khi chàng đã nghe là A-chê-la-út đã trị vì ở Giu-đai-a thay chỗ của Hê-rốt bố ông ấy, chàng đã sợ để đi tới đó: mặc dù, đã được cảnh báo của Chúa Trời trong một giấc mơ, chàng đã rẽ sang một bên vào những phần đất của Ga-li-lêi:
23 Và chàng đã đến và ngụ ở trong một thành phố gọi là Na-da-rét: như vậy đã có thể ứng nghiệm điều đã được nói bởi các nhà tiên tri, Nó sẽ được gọi là một Na-da-rét.

Cậu con giai tốt số

0 ý kiến, và ý kiến từ facebook



Một vài người được sinh ra để vẫy quốc kỳ
Chao ôi, chúng có màu đỏ, trắng với xanh lam
Và khi ban nhạc chơi bài "Đón chào ngài thủ lĩnh"
Chao ôi, họ hướng thần công về phía các anh

Không phải tôi, không phải tôi
Tôi không phải con giai ngài thượng nghị sĩ
Không phải tôi, không phải tôi
Tôi không phải cậu con giai tốt số

Một vài người được sinh ra với thìa bạc trong tay
Chúa ơi, họ không phải giúp chính mình
Nhưng khi người thu thuế tới cửa nhà
Chúa ơi, ngôi nhà trông như nơi bày đồ thanh lí

Không phải tôi, không phải tôi
Tôi không phải con giai ngài triệu phú
Không phải tôi, không phải tôi
Tôi không phải cậu con giai tốt số

Một vài người thừa hưởng đôi mắt điểm sao
Chao ôi, họ gửi các anh ra chiến trận
Và khi anh hỏi họ "Tôi phải cống hiến bao nhiêu?'
Chao ôi, họ chỉ trả lời "Nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều hơn!"

Không phải tôi, không phải tôi
Tôi không phải con giai của tướng quân
Không phải tôi, không phải tôi
Tôi không phải cậu con giai tốt số.


C.C.R. (1970)

Chuyện đùa nho nhỏ

1 ý kiến, và ý kiến từ facebook

Một buổi trưa mùa đông trong sáng... Lớp băng cứng kêu lách tách. Na-đen-ka khoác tay tôi, một lớp sương giá lấp lánh ánh bạc phủ trên những lọn tóc ở hai thái dương cô và hàng lông tơ phía trên môi cô. Chúng tôi đứng trên một quả đồi cao. Từ chỗ chân chúng tôi xuống đến mặt đất trải ra một mặt phẳng thoai thoải sáng loáng trong nắng như một tấm gương. Bên cạnh chúng tôi là những chiếc xe trượt nhỏ, bọc nỉ màu đỏ sáng sủa.

- Xuống dưới kia đi, Na-đê-dờ-đa Pê-tờ-rốp-na! - Tôi van vỉ - Chỉ một lần thôi! Tôi cam đoan với cô là chúng ta sẽ nguyên vẹn và không bị làm sao.

Nhưng Na-đen-ka sợ khoảng không gian từ đôi giày xinh nhỏ của cô xuống đến chân quả đồi phủ băng này, cô thấy giống như một vực thẳm hun hút vô tân khủng khiếp chỉ mới nhìn xuống phía dưới, chỉ mới nghe tôi bảo ngồi vào xe trượt, cô đã lặng người và hơi thở của cô đã đứt quãng, chứ nếu liều mạng lao xuống cái vực thẳm kia, thì cô sẽ ra sao đây! Cô sẽ chết mất, cô sẽ phát điên lên mất.

- Tôi van cô đấy - Tôi nói - Không cần phải sợ! Hãy hiểu đi, thế là nhát gan, sợ sệt!

Cuối cùng, Na-đen-ka nhân nhượng và qua vẻ mặt cô tôi thấy rõ cô vẫn nghĩ rằng đó là một sự nhân nhượng có thể nguy hiểm đến tính mạng. Tôi đỡ cô vào xe mà mặt cô tái mét, người cô run bần bật. Tôi vòng tay ôm lấy cô rồi cùng cô lao xuống vực. Chiếc xe trượt bay nhanh như một viên đạn. Làn không khí bị rẹp toác đập vào mắt, gào rú, rít lên trong tai, như cắn như cấu, như muốn bứt đầu ra khỏi cổ. Gió mạnh đến nghẹt thở. Cảnh vật xung quanh quyện vào nhau thành một dải dài, chạy nhanh vùn vụt. Tưởng như chỉ một chớp mắt nữa thôi, là chúng tôi sẽ chết.

- Tôi yêu cô, Na-đi-a! - Tôi thì thầm.

Chiếc xe bắt đầu trượt chậm dần, tiếng gào của gió và tiếng rít của đế trượt không còn đáng sợ lắm, mệt, hơi thở đã không còn, tưởng như bị đứt, và cuối cùng, chúng tôi đã ở dưới chân đồi. Mặt cô tái nhợt, cô chỉ còn thoi thóp thở... Tôi giúp cô đứng lên.

- Sẽ không bao giờ tôi trượt lần nữa đâu - Cô nói, nhìn tôi bằng đôi mắt mở to đầy khiếp hãi - Không đời nào! Tôi suýt nữa thì chết đây này!

Một lát sau cô dần dần hồi lại và nhìn thẳng vào mắt tôi như muốn hỏi. Có phải tôi nói bốn cái từ kia không, hay là cô chỉ tưởng như thế giữa tiếng gió ào ào? Còn tôi, tôi đứng cạnh cô, hút thuốc và chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình.

Cô khoác tay tôi và chúng tôi đi dạo hồi lâu ở gần quả đồi. Hình như điều bí ẩn ấy không để cô yên. Những lời ấy có phải là ai nói lên hay không? Có hay không? Đó là vấn đề tự ái, danh dự, cuộc sống, hạnh phúc. Đó là vấn đề rất quan trọng, quan trọng nhất trên đời này. Na-đen-ka bồn chồn và buồn rầu nhìn đăm đăm vào mặt tôi, cô trả lời câu được, câu chăng, cô chờ đợi xem tôi có nói ra điều gì không? Ôi gương mặt đáng yêu của cô trông mới sinh động làm sao, như hàm chứa muôn vàn tâm trạng! Tôi thấy cô đang tự đấu tranh với bản thân, cô đang cần nói một điều gì đó, hỏi một điều gì đó, nhưng cô không tìm ra lời lẽ. Cô lúng túng, cô sợ hãi, cô khó nói vì lòng cô đang tràn ngập sướng vui

- Anh biết gì không? - Cô nói, không nhìn vào tôi.

- Gì cơ? - Tôi hỏi

- Thêm một lần nữa... trượt xe đi.

Chúng tôi leo bậc thang lên đồi. Tôi lại đỡ cô. Na-đen-ka tái nhợt, run rẩy vào xe trượt, chúng tôi lại đẩy xuống vực thẳm khủng khiếp, gió lại gào rú và đế trượt lại rít lên, và giữa lúc xe trượt đang lao nhanh nhất, các âm thanh đang vang lên ồn ĩ nhất, tôi lại thì thầm:

- Tôi yêu cô, Na-đi-a!

Khi chiếc xe dần dần dừng lại, Na-đen-ka đưa mắt nhìn một lượt quả đồi chúng tôi vừa trượt xuống. Sau đó cô chăm chú nhìn rất lâu vào mắt tôi, lắng nghe giọng nói của tôi, một giọng nói thản nhiên và hờ hững, và toàn bộ, toàn bộ cô, kể cả chiếc bao tay và tấm khăn trùm của cô, toàn bộ thân hình cô, tất cả đều thể hiện vẻ cực kỳ ngỡ ngàng. Và mặt cô như muốn hỏi:

"Thế là thế nào nhỉ? Ai đã nói những lời đó? Anh ấy hay là ta chỉ tưởng như nghe thấy."

Tình trạng mập mờ đó không để cô yên, nó làm cô phát cáu. Cô gái tội nghiệp không trả lời những câu tôi hỏi, cô chau mày, chực khóc.

- Ta về nhà thôi chứ? - Tôi hỏi.

- Tôi... tôi thích trượt xe lắm, - cô nói, mặt đỏ bừng - Sao chúng ta không trượt thêm lần nữa?

Cô nói "thích" trượt, nhưng khi ngồi vào xe, cũng như hai lần trước, cô nhợt nhạt, chỉ còn thở thoi thóp vì khiếp sợ, người run bần bật.

Chúng tôi trượt lần thứ ba, và tôi thấy cô nhìn vào mặt tôi, dõi theo đôi môi tôi. Nhưng tôi đã đưa khăn tay lên che miệng giả vờ ho vài tiếng và khi xe xuống đến lưng chừng đồi, tôi vẫn kịp nói:

- Tôi yêu cô, Na-đi-a!

Vậy là điều bí ẩn vẫn bí ẩn! Na-đen-ka im lặng, ngẫm nghĩ gì đó. Tôi đưa cô về nhà, cô cố đi thật khẽ khàng, chân bước chậm lại và luôn chờ xem tôi có nói với cô mấy lời kia không ? Và tôi thấy cô dằn vặt đau khổ, cô cố ghìm lại để khỏi nói:

- Không thể có chuyện gió nói lên những lời đó! Và tôi không muốn đó là gió nói!

Sáng hôm sau tôi nhận được một mảnh giấy : "Nếu hôm nay anh ra đồi trượt xe, thì hãy qua rủ tôi. N" Và từ hôm đó, ngày nào tôi cũng cùng Na-đen-ka ra đồi trượt, và khi xe trượt đang lao như bay xuống, lần nào tôi cũng thì thầm nói vẫn những lời ấy:

- Tôi yêu cô, Na-đi-a!

Chẳng bao lâu Na-đen-ka quen dần với câu nói đó như người ta quen với rượu hoặc móc-phin. Cô không thể sống thiếu nó. Quả thật lao như bay từ trên đồi xuống vẫn đáng sợ đối với cô, nhưng bây giờ, nỗi sợ và sự nguy hiểm lại đem lại sức quyến rũ đặc biệt cho những lời về tình yêu, những lời vẫn vô cùng bí ẩn giày vò tâm hồn cô, bị nghi ngờ vẫn chỉ có hai: tôi và gió - Ai trong hai "người" đó đã tỏ tình với cô, cô không biết, nhưng dường như với cô chuyện ấy đã không còn quan trọng; cho dù là uống rượu từ bình nào - cũng thế thôi, miễn say là được.

Một buổi trưa tôi đến bãi trượt một mình, đứng lẫn vào đám đông, tôi trông thấy Na-đen-ka tới gần quả đồi, thấy cô đưa mắt tìm tôi... Sau đó cô rụt rè leo lên các bậc thang... Thật đáng sợ khi trượt một mình. Ôi thật là đáng sợ. Mặt tái nhợt, cô run run, cô đi đúng như đi hành hình, nhưng cô vẫn đi, không ngoái lại vẻ cương quyết. Chắc hẳn cuối cùng cô đã quyết định thử xem khi không có tôi thì cô có nghe thấy những lời dịu ngọt tuyệt diệu kia không? Tôi thấy cô mặt tái mét, miệng há ra vì khiếp sợ, ngồi và xe trượt, nhắm mắt lại và vĩnh biệt mặt đất, cô để xe bắt đầu trượt đi. "Ri-i-ít" đế trượt rú lên. Na-đen-ka có nghe thấy những lời ấy không? Tôi không biết. Tôi chỉ thấy cô bước ra khỏi xe mệt nhoài, yếu ớt. Và qua vẻ mặt cô có thể thấy rõ chính cô cũng không biết cô có nghe thấy gì không. Nỗi sợ khi cô lao xuống dưới đã khiến cô không còn nghe thấy gì nữa, không còn phân biệt được các âm thanh và hiểu được điều gì.

Nhưng tháng ba của mùa xuân đã tới... Ánh nắng trở lên dịu dàng hơn. Quả đồi băng của chúng tôi sẫm lại không còn bóng láng lên nữa và cuối cùng thu cạn dần. Chúng tôi thôi không trượt xe. Na-đen-ka tội nghiệp không còn có chỗ để nghe những lời ấy nữa. Vả lại cũng chẳng còn ai để nói những lời ấy, bởi vì không nghe thấy tiếng gió, còn tôi thì chuẩn bị đi Pê-téc-bua - đi lâu, phải thế, mãi mãi.

Thế nào đó trước khi đi khoảng hai hôm, lúc nhập nhoạng tôi ngồi ở mảnh vườn ngăn cách với nhà Na-đen-ka bởi một hàng rào cao có nhô lên những đầu sắt nhọn. Trời còn khá lạnh, bên dưới lớp phân súc vật hãy còn tuyết, cây cối trông vẫn như đã chết, nhưng đã thoang thoảng hương vị mùa xuân, và khi về nơi trú đêm, lũ quạ kêu quang quách ầm ĩ. Tôi tới gần hàng rào và nhìn rất lâu qua một cái khe. Tôi thấy Na-đen-ka bước ra thềm và buồn rầu nhìn lên bầu trời như nhớ nhung điều gì. Làn gió xuân thổi thẳng vào gương mặt xanh xao ủ dột của cô. Nó khiến cô nhớ tới làn gió gào rú hôm xưa trên đồi, khi cô nghe thấy bốn từ kia, và thế là mặt cô trở lên buồn rầu vô kể, một giọt nước mắt lăn trên má... Và cô bé tội nghiệp đưa cả hai tay ra như cầu xin làn gió này đem lại cho cô những lời ấy lần nữa. Và tôi, chờ đang lúc có một làn gió thổi qua, thì thầm:

- Tôi yêu cô, Na-đi-a!

Trời ơi! Có chuyện gì đang xảy ra với Na-đen-ka thế này? Cô reo lên, mỉm cười rạng rỡ cả khuôn mặt và đưa hai tay đón gió, vui sướng, hạnh phúc, xiết bao xinh đẹp.

Còn tôi, tôi quay vào nhà thu xếp hành lý.

Chuyện ấy đã lâu rồi. Bây giờ Na-đen-ka đã có chồng; người ta đã gả cô, hoặc cô tự nguyện - đằng nào cũng thế, lấy một người làm thư ký hội đồng giám hộ quý tộc, và cô đã có ba con. Nhưng chuyện chúng tôi lúc nào đó đã cùng đi trượt xe thế nào và làn gió đã đem đến những lời "Tôi yêu cô, Na-đen-ka" ra sao, thì không bị lãng quên. Đối với cô bây giờ, đó là kỷ niệm hạnh phúc nhất, cảm động nhất và đẹp đẽ nhất trong đời.

Còn tôi bây giờ, khi đã nhiều tuổi hơn, tôi đã không hiểu, tôi đã nói những lời ấy để làm gì, vì cái gì mà tôi đã đùa...

1886

A. P. Tchekhov